Loài Ophiopogon sp. (Cây Mạch Môn Đông)

Tên
Tên khác: 

Mạch môn đông, Tóc tiên, Xà thảo lá dài

Tên khoa học: 

Ophiopogon sp.

Họ: 

Mạch môn đông (Convallariaceae)

Mẫu thu hái tại: 

Tuy Hòa - Phú Yên, ngày 01 tháng 06 năm 2009

Số hiệu mẫu: 

MM 0106

Thân cỏ nhiều năm mọc thành bụi, cao khoảng 40 cm, rễ chùm, có những chỗ phát triển thành củ hình trụ, dài khoảng 1,5-2 cm, đường kính khoảng 0,6-0,9 mm, bề mặt lát cắt màu trắng, hơi trong, có lõi hẹp, mùi đặc biệt. Thân trên mặt đất ngắn. hình dải hẹp, mọc chụm dưới đất, xếp thành 2 dãy, dài 50-60 cm, rộng 0,8 cm, nhẵn, gốc có bẹ to có màng bao màu trắng ôm các bẹ lá bên trong, đầu nhọn, gân lá song song, nổi rất rõ ở mặt dưới, mặt trên xanh lục sẫm, mặt dưới trắng nhạt, mép lá bén nhọn. Từ gốc lên ngọn, lá rộng dần và dẹp dần, màu cũng đậm hơn.
Thời điểm thu hái cây không có hoa do đó chúng tôi chưa xác định được loài.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Rễ củ: Tầng lông hút có lông hút đơn bào. Tầng suberoid gồm 2-3 lớp tế bào hình đa giác xếp sát nhau, vách tẩm suberin. Mô mềm vỏ rất rộng, tế bào ở phía ngoài hình tròn hay đa giác, tế bào ở phía trong hình bầu dục theo hướng xuyên tâm; rải rác có bó tinh thể calci oxalat hình kim nhỏ hoặc lớn (hiếm gặp hơn). Nội bì hình chữ U, trụ bì gồm 1-2 lớp tế bào, hóa mô cứng rải rác. Các bó gỗ cấp 1 phân hóa hướng tâm, xếp xen kẽ với bó libe cấp 1. Vùng mô mềm ruột hẹp gồm các tế bào có vách mỏng, kích thước nhỏ hơn tế bào mô mềm vỏ. Mạch hậu mộc nhỏ trong vùng mô mềm tủy bị hóa mô cứng.
Thân: Cấu tạo từ nhiều bẹ lá già bao lấy các bẹ lá non hơn. Mỗi bẹ lá già có một phần rộng ở giữa mang các bó mạch, hai đầu hẹp dần cuối cùng chỉ còn 2 lớp biểu bì nằm sát và xen kẽ nhau tạo thành màng mỏng. Tại phần mang bó mạch, dưới biểu bì là các tế bào vách rất dày có xu hướng phát triển thành mô cứng hoặc sợi, mô mềm vỏ khuyết gồm các tế bào tròn, vách mỏng. Các bó dẫn không đều nhau, libe hình nón chồng lên gỗ, các bó lớn có mô cứng bao xung quanh. Các bẹ lá non hơn chưa có màng, cấu tạo giống bẹ già nhưng các tế bào xung quanh bó mạch vẫn chưa tẩm chất gỗ, các tế bào mô mềm vỏ tạo các khuyết rộng hơn. Tinh thể calci oxalat hình kim tập trung thành bó trong tế bào mô mềm vỏ.
: Có tiết diện tam giác ở gần gốc, phía trên hẹp dần.
Đoạn từ gốc đến 1/2 chiều dài lá phẳng ở mặt trên và lồi ở mặt dưới. Biểu bì có cutin lồi, phía dưới biểu bì có 3-6 lớp tế bào màng rất dày, vách vẫn còn cellulose có xu hướng phát triển thành sợi. Mô mềm vỏ khuyết, tế bào hình tròn, nhỏ, càng vào bên trong càng lớn, dẹp, hình đa giác. Trong vùng mô mềm có khoảng 5-8 bó gỗ không đều, hình dạng và cấu tạo như ở thân. Tinh thể calci oxalat hình kim tập trung thành bó trong vùng mô mềm.
Biểu bì lá: Biểu bì trên là những tế bào hình chữ nhật xếp song song với nhau, không thấy lỗ khí. Biểu bì dưới có nhiều lỗ khí kiểu lớp 1 lá mầm và bao bọc bởi cutin lồi.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột rễ củ màu vàng, vị ngọt. Thành phần gồm: mảnh bần, tế bào hình đa giác vách dày hay hình chữ nhật xếp xuyên tâm; mảnh suberoid, tế bào hình đa giác xếp lộn xộn; mảnh mô mềm tế bào có màng mỏng, hình tròn hoặc đa giác; tinh thể calci oxalat hình kim dài 40-60 µm, rộng 2-3 µm, riêng rẽ hay xếp thành từng bó; lông hút đơn bào; tế bào mô cứng hình chữ nhật có vách dày, khoang còn rộng, ống trao đổi rõ, thường xếp thành từng đám; đám tế bào mô cứng của vùng mô mềm tủy hình đa giác, khá đều nhau; các mảnh mạch mạng, mạch điểm.

Bộ phận dùng: 

Rễ củ (Radix Ophiopogonis japonici) đã phơi hay sấy khô.

Thu hái và chế biến: 

Thu hoạch vào mùa hạ rễ củ của cây 2-3 năm tuổi, rửa sạch, loại bỏ rễ tua; rễ củ nhỏ để nguyên, rễ củ to bổ đôi theo chiều dọc, ủ mềm, đập dẹt, rút bỏ lõi, phơi nắng nhiều lần cho gần khô (khô khoảng 70-80%) hay sấy nhẹ đến khô. Sao cách cát.

Thành phần hóa học: 

5 glucosid đã được phân lập từ rễ củ, 3 chất đầu khi thủy phân thu được diosgenin, ở chất thứ tư, genin là ruscogenin, còn chất thứ năm cho choophiogenin. Ngoài ra, còn có stigmasterol, β-sitosterol, β-D-glucosid, các hợp chất polysaccarid, tinh dầu và các thành phần như β-patchoulen, longifolen, cyperen, α-humulen, guajol, jasmolelon.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Tác dụng chống viêm rõ rệt đối với cả giai đoạn cấp tính và bán mạn tính của phản ứng viêm thực nghiệm. Tác dụng gây thu teo tuyến ức với mức độ yếu. Tác dụng ức chế tương đối khá trên phế cầu và yếu hơn trên sự phát triển của các chủng vi khuẩn: tụ cầu vàng, Shigella dysenteriae, Bacillus subtilis. Rễ củ dùng chữa ho khan, viêm họng, lao phổi, nóng âm ỉ về chiều, sốt cao, khát nước, thổ huyết, hen phế quản, khó ngủ. Còn dùng để lợi tiểu và lợi sữa, điều hòa nhịp tim khỏi hồi hộp, táo bón, lở ngứa. Ngày dùng 6-20 g, dạng thuốc sắc.