Loài Achyranthes aspera L.(Cây Cỏ Xước)

Tên
Tên khác: 

Ngưu tất nam.

Tên khoa học: 

Achyranthes aspera L.

Tên đồng nghĩa: 

A. aspera var. rubro-fusca Wight, A. canescens R. Br., A. grandifolia Moq., A. argentea Decne, Cyathula geniculata Lour.

Họ: 

Rau dền hay Rau giền (Amaranthaceae).

Tên nước ngoài: 

Prickly chaff-flower, Achyranthe, Herbe d’Inde.

Mẫu thu hái tại: 

Hóc Môn, tháng 6/2010.

Số hiệu mẫu: 

CX0610, được lưu tại Bộ môn Thực vật Khoa Dược.

Cây cỏ, mọc đứng, cao 20-50 cm, có khi đến 1 m, phía gốc phân nhiều nhánh đối nhau. Thân non tiết diện vuông, gốc lóng phù to, màu xanh lục, có nhiều lông trắng dài và hơi nhám; thân già cứng, tiết diện gần tròn, có lông thưa và nhiều nốt sần.
đơn, mọc đối chéo chữ thập, nhiều lông trắng dài và hơi nhám. Phiến hình bầu dục hay hình trứng ngược, dài 3,5-9 cm, rộng 2,5-6,5 cm, đầu tù và có mũi nhọn ngắn, gốc thuôn nhọn, men theo cuống một đoạn 0,5 cm, mặt trên màu xanh lục sậm, mặt dưới nhạt hơn; mép lá nguyên, lượn sóng, đôi khi hơi tím; gân lá hình lông chim nổi rõ ở mặt dưới, đôi khi màu hơi đỏ ở gốc. Cuống lá dài 1-1,5 cm, màu xanh lục, hình lòng máng, hơi nở rộng phía gốc.
Cụm hoa gié ở ngọn cành, dài 30-40 cm, phủ đầy lông dài màu trắng; cuống cụm hoa dài 2-5 cm; trục cụm hoa có đường kính 1-2 mm, hơi thuôn nhỏ về phía ngọn; hoa xếp dãn ở phía gốc, xếp khít nhau phía ngọn, hoa lúc đầu (các hoa ở ngọn gié) mọc thẳng đứng nhưng sau khi bao phấn mở thì chúc ngược xuống.
Hoa nhỏ, đều, lưỡng tính, mẫu 5, khô xác, không có cánh hoa, có 1 lá bắc và 2 lá bắc con; lá bắc rải rác có lông dài màu trắng, một gân dọc nổi rõ ở giữa, dài 3-3,5 mm, ½ phía dưới hình bầu dục, ngang 1-1,5 mm, ½ phía trên kéo dài thành một phiến giống như gai nhọn; lá bắc con cứng, dài 2,5-3 mm, ½ phía dưới màu hồng đỏ, cong hình liềm, hai bên có hai cánh dạng phiến rất mỏng màu trắng, ½ phía trên màu vàng xanh và thuôn nhọn như gai. Lá đài 5, hơi không đều, rời, hình bầu dục thuôn nhọn, dài 4-4,5 mm, rộng 1-1,5 mm, màu xanh lục, mặt ngoài nhẵn và có 1-3 gân dọc màu vàng xanh nổi rõ, tiền khai ngũ điểm, tồn tại trên quả. Nhị thụ 5, xếp xen kẽ với 5 nhị lép, dính nhau phía dưới thành một ống cao khoảng 1 mm, dạng chén, phía trên rời. Nhị thụ đều, ngắn hơn lá đài, đính đối diện với lá đài; chỉ nhị hình sợi, dài 2 mm, hơi cong, màu vàng, nhẵn; bao phấn hình bầu dục thuôn, phía đầu có lông dài, màu vàng, 2 ô, hướng trong, nứt dọc, đính giữa; hạt phấn rời, màu vàng nhạt, hình cầu, đường kính 10-15 µm, đôi khi hình bầu dục thuôn, dài 10-15 µm, rộng 5-8 µm, bề mặt có vân hình mạng. Nhị lép là 5 phiến mỏng màu trắng, phần gốc hẹp, phần rời phía trên nở rộng hình quạt, dài 1 mm, trên đầu có nhiều tua sợi. Lá noãn 2, dính nhau tạo thành bầu trên 1 ô, đựng 1 noãn cong đính ở đáy bầu; bầu màu vàng, hình trụ, hơi loe ở phía trên, cao gần 1 mm; vòi nhụy 1, dài 1 mm, màu vàng, tồn tại trên quả; đầu nhụy 1, hơi loe rộng thành dạng tháp, màu vàng, phủ đầy gai thịt dài. Quả bế, hình trụ, dài 2-3 mm, màu nâu, được bao bọc bởi các lá đài tồn tại dạng khô xác, đựng 1 hạt.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Rễ
Mặt cắt ngang hình tròn, vùng vỏ chiếm 1/5 diện tích vi phẫu, vùng trung trụ 4/5.
Vùng vỏ: Bần thường 2-4 lớp tế bào hình chữ nhật dẹt, vách mỏng, xếp thành dãy xuyên tâm; lớp ngoài thường bị bong rách. Nhu bì 1-2 lớp tế bào hình chữ nhật rất dẹt, vách cellulose. Mô mềm vỏ 6-8 lớp tế bào hình bầu dục dẹt, xếp lộn xộn, chừa những đạo hay khuyết nhỏ.
Vùng trung trụ: Thường 3-4 vòng libe gỗ. Vòng libe gỗ chính ở vùng tâm vi phẫu, bị tia tủy chia thành 2-3 nhánh hình quạt, ít khi nhiều hơn; mỗi nhánh gồm libe ở trên, gỗ ở dưới; libe cấp 1 thành những cụm nhỏ, tế bào nhỏ, hình đa giác méo mó; libe cấp 2 nhiều lớp tế bào hình chữ nhật dẹt, xếp thành dãy xuyên tâm; tầng sinh libe gỗ ở giữa libe cấp 2 và gỗ cấp 2; gỗ cấp 2 gồm nhiều mạch to, kích thước không đều, sắp xếp lộn xộn, mô mềm gỗ tế bào hình chữ nhật hay hình đa giác, vách tẩm chất gỗ mỏng hay dày, xếp thành dãy xuyên tâm; gỗ cấp 1 gồm 2-3 bó ngay tâm vi phẫu, dưới chân tia tủy, mỗi bó gồm 3-4 mạch nhỏ, không đều, phân hóa hướng tâm; tia tủy từ tâm vi phẫu, xuyên qua vùng gỗ và loe rộng ở vùng libe, tế bào hình chữ nhật hay đa giác kéo dài, vách cellulose, xếp thành dãy xuyên tâm, thường chừa những đạo nhỏ ở góc các tế bào. Vòng libe gỗ thặng dư xuất hiện phía ngoài vòng libe gỗ chính, tuần tự từ trong ra ngoài, số vòng tăng dần theo độ già của rễ, là một vòng đều đặn hay uốn lượn không đều; libe gỗ thặng dư họp thành bó, kích thước không đều. Tinh thể calci oxalat hình khối nhỏ trong tế bào mô mềm.

Thân
Mặt cắt ngang thân nonthân trưởng thành có hình vuông, có nhiều góc lồi, rõ ở thân non, ít rõ ở thân trưởng thành, vùng vỏ chiếm 1/10 diện tích vi phẫu, vùng trung trụ chiếm 9/10. Mặt cắt ngang thân già gần như tròn.
Vùng vỏ: Biểu bì 1 lớp tế bào to, hình chữ nhật, hình vuông hay hình đa giác; lớp cutin dày. Lông che chở đa bào xếp trên một hàng dọc, kéo dài từ 1-3 tế bào biểu bì, nhiều ở thân non, ít dần khi thân già, có 2 dạng: (1) dạng lông dài nhiều, thẳng, đầu nhọn, có 2 phần: chân lông thường phình to, cấu tạo bởi 1-2 tế bào to, vách dày, mặt ngoài nhẵn; thân lông gồm 2-4 tế bào, không đều, 1-2 tế bào dưới vách mỏng, mặt ngoài thường nhẵn ít khi có vài mụn nhỏ rải rác, 1-2 tế bào trên cùng dài đến rất dài, vách dày, mặt ngoài phủ đầy mụn cóc; (2) lông ngắn ít hơn, thường cong quẹo, đầu tù, gồm 4-7 tế bào không đều, vách mỏng, mặt ngoài nhẵn. Mô dày 7-10 lớp tế bào hình đa giác, vách dày nhiều ở góc, sắp xếp lộn xộn, tạo thành vòng không liên tục, thường tập trung ở những góc lồi của thân. Mô mềm vỏ có 2 loại: (1) phần mô mềm xen giữa những cụm mô dày gồm 4-5 lớp tế bào nhỏ, hình tròn, chứa nhiều lục lạp, xếp chừa những khuyết nhỏ; (2) vùng mô mềm còn lại dưới mô dày 2-4 lớp tế bào to, hình bầu dục dẹt, xếp chừa những đạo. Tinh thể calci oxalat kết dính thành hình cầu gai hay rời rạc thành một khối vụn trong nhiều tế bào mô mềm, thường tập trung ở vùng ngay dưới mô dày.
Vùng trung trụ: Cụm sợi mô cứng to nhỏ không đều, xếp rải rác trên một vòng, tế bào hình đa giác, không đều, vách dày đến rất dày. Vòng mô dẫn có cấu tạo thay đổi ở thân non và thân trưởng thành.
- Ở thân non vòng mô dẫn không liên tục, libe và gỗ họp thành từng bó rời, kích thước không đều, dưới những góc lồi của thân, xen kẽ với những khoảng mô mềm (khoảng gian bó); cụm sợi mô cứng ngay trên đầu mỗi bó libe gỗ. Bó libe gỗ gồm: libe thành từng cụm trên đầu bó gỗ; libe cấp 1 ở trên; libe cấp 2 ở dưới, vài lớp tế bào gần tầng sinh libe gỗ có hình chữ nhật rõ, xếp thành dãy xuyên tâm; tầng sinh libe gỗ là một vòng liên tục ở giữa libe cấp 2 và gỗ cấp 2; gỗ cấp 2 với những mạch gỗ không đều, xếp không thứ tự, mô mềm gỗ cấp 2 tế bào hình chữ nhật hay đa giác, vách hóa gỗ dày hay mỏng, xếp khít nhau; gỗ cấp 1 gồm các mạch gỗ rời nhau, không đều, phân hóa ly tâm, mô mềm gỗ tế bào hình đa giác, vách cellulose. Khoảng gian bó nhiều dãy tế bào hình chữ nhật xếp thành dãy xuyên tâm, phía trên tầng sinh libe gỗ là vùng mô mềm tế bào có vách cellulose, phía dưới là vùng mô mềm tế bào có vách hóa gỗ. Tia tủy hẹp, 1-2 dãy tế bào.
- Ở thân trưởng thành vòng mô dẫn có cấu tạo bất thường do sự xuất hiện, tuần tự từ trong ra ngoài, các tầng sinh libe gỗ phụ phía ngoài vòng libe gỗ chính. Gỗ thặng dư lúc đầu là từng bó không đều, rời, nhưng khi thân già là một vòng liên tục; mạch gỗ kích thước không đều, thường xếp thành từng dãy 2-5 mạch; mô mềm gỗ tế bào hình đa giác, vách tẩm chất gỗ dày hay mỏng, xếp khít nhau thành dãy xuyên tâm. Libe thặng dư bao phía ngoài vòng gỗ, lúc đầu là từng cụm nhỏ, tiếp sau là từng đoạn dài ngắn khác nhau xếp thành vòng uốn lượn ở trong vòng gỗ, cuối cùng là vòng liên tục ở thân già. Mô mềm tủy tế bào hình tròn hay hình đa giác, xếp chừa những đạo. Bó vết lá 2, ở giữa mô mềm tủy, xếp đối diện nhau, cấu tạo cấp 2 ít phát triển, có nhiều dạng: 2 bó có thể rời, mỗi bó gồm libe ở ngoài gỗ ở trong hay gỗ bao libe; 2 bó cũng có thể dính ở libe thành một. Tinh thể calci oxalat kết dính thành hình cầu gai hay rời rạc thành một khối vụn trong nhiều tế bào mô mềm tủy.

Gân giữa: mặt trên lồi thành hình chữ nhật, hơi lõm ở giữa, mặt dưới lồi tròn. Biểu bì tế bào hình bầu dục, biểu bì trên thẳng, biểu bì dưới uốn lượn tạo thành những góc lồi nhỏ; lớp cutin dày. Lông che chở nhiều, cấu tạo tương tự ở thân. Mô dày trên là cung liên tục, 4-6 lớp tế bào hình đa giác, vách dày rõ ở góc. Mô mềm có 2 loại: (1) phần mô mềm xen giữa những cụm mô dày gồm 3-4 lớp tế bào nhỏ, hình tròn, chứa nhiều lục lạp, xếp chừa những khuyết nhỏ; (2) vùng mô mềm còn lại tế bào hình tròn hay hình đa giác, xếp lộn xộn và chừa những đạo. Bó libe gỗ ở giữa, 4-7 bó kích thước không đều xếp thành vòng; những bó hướng xuống biểu bì dưới to, libe bao ở dưới, gỗ ở trên, có thể có cụm mô dày bao dưới libe; những bó hướng lên biểu bì trên nhỏ hơn, libe bao ở trên, gỗ ở dưới, cũng có thể có cụm mô dày bao trên libe; libe tế bào nhỏ, hình đa giác, thường méo mó, xếp không thứ tự; gỗ với nhiều mạch gỗ hình đa giác, kích thước không đều, xếp lộn xộn, mô mềm gỗ tế bào hình bầu dục hay đa giác, vách cellulose, xếp thành dãy. Mô dày dưới 3-5 lớp tế bào hình đa giác, vách dày rõ ở góc, tạo thành cung liên tục hay gián đoạn ở những chỗ lõm của biểu bì. Tinh thể calci oxalat hình cầu gai hay rời rạc thành khối vụn trong tế bào mô mềm.
Phiến lá: Biểu bì tế bào hình chữ nhật hay hình vuông, không đều; biểu bì trên tế bào to, vách dày; biểu bì dưới tế bào nhỏ hơn, có khi méo mó hay dẹt lại, vách mỏng, nhiều lỗ khí; lớp cutin mỏng ở cả hai lớp biểu bì. Lông che chở tương tự ở thân. Mô mềm giậu 3-4 lớp tế bào hình chữ nhật ngắn, các lớp dưới tế bào có thể hình gần tròn, xếp khít nhau hay có những đạo ở góc. Mô mềm khuyết tế bào to, không đều, hình gần tròn, xếp chừa khuyết nhỏ. Bó libe gỗ của gân phụ rải rác, được bao quanh bởi một vòng tế bào mô mềm, gồm vài mạch gỗ nhỏ ở trên, libe ở dưới. Tinh thể calci oxalat hình cầu gai thường trong lớp tế bào ranh giới giữa mô mềm giậu và mô mềm khuyết.
Cuống lá: mặt trên lõm sâu như hình chữ U, mặt dưới lồi thành 3 góc nhọn. Biểu bì tế bào hình vuông, biểu bì trên thẳng, biểu bì dưới uốn lượn tạo thành những góc lồi nhỏ; lớp cutin dày. Lông che chở nhiều, cấu tạo tương tự ở thân. Mô dày thường là vòng liên tục, ít khi gián đoạn một vài nơi, 2-4 lớp tế bào hình đa giác, vách dày rõ ở góc. Mô mềm tế bào hình tròn hay hình đa giác, xếp lộn xộn và chừa những đạo. Bó libe gỗ 5-7 bó kích thước không đều xếp thành hình cung, cấu tạo tương tự như các bó ở gân giữa. Tinh thể calci oxalat kết dính thành hình cầu gai hay rời rạc thành một khối vụn trong nhiều tế bào mô mềm.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột rễ màu vàng nhạt, vị nhạt, không mùi.
Soi kính hiển vi thấy: Mảnh mạch nhỏ, chủ yếu là mạch điểm, mạch mạng ít hơn. Sợi xếp thành bó hoặc đứng riêng lẻ, tế bào dài hẹp, vách mỏng, màu vàng rất nhạt. Mảnh bần màu vàng sậm, tế bào vách dày. Mảnh mô mềm tế bào vách mỏng. Tinh thể calci oxalat nhỏ, hình khối.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Cỏ xước là một loài liên nhiệt đới, phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Ở nước ta cũng gặp khá phổ biến. Cây mọc trên bãi cỏ, nương rẫy cũ, quanh làng bản, ven đường đi, bờ bụi, nơi có ánh sáng và đất tốt, tới độ cao 1500 m. Cây ra hoa vào mùa hè và mùa thu.

Bộ phận dùng: 

Rễ (Radix Achyranthis asperae) đã phơi khô hay sấy khô.

Thành phần hóa học: 

Rễ chứa saponin, trong đó phần aglycon là acid oleanolic, phần đường là glucose, galactose, rhamnose
Rễ chứa ecdisteron, achiranthin; thân chứa K; hột chứa saponin.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Cỏ xước có vị đắng, chua, tính bình, vào 2 kinh can và thận, có tác dụng thanh nhiệt, giải biểu, khu phong trừ thấp, hoạt huyết mạnh gân. Rễ dùng trị cảm mạo phát sốt, sốt rét, lỵ, thấp khớp tạng thấp, viêm thận phù thủng, tiểu tiện không lợi, đái dắt, đái buốt, đau bụng kinh, vô kinh, kinh nguyệt không đều, đòn ngã tổn thương. Liều dùng 15-30g, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài lấy cây tươi giã đắp.