Họ Bứa (Clusiaceae)

Chi Garcinia L.

Loài Garcinia mangostana L.(Cây Măng Cụt)

Tên
Tên khác: 

Sơn trúc tử, Giáng châu.

Tên khoa học: 

Garcinia mangostana L.

Tên đồng nghĩa: 

Mangostana garcinia Gaertner

Họ: 

Bứa (Clusiaceae)

Tên nước ngoài: 

: Mangosteen, brindonia tallow tree, kokambutter tree (Anh); mangoustan cultivé, mangoustanier, garcinie mangoustan (Pháp).

Mẫu thu hái tại: 

Đồng Nai, tháng 4/ 2010.

Số hiệu mẫu: 

MC 0410, lưu tại Bộ môn Thực vật-Khoa Dược, được so với mẫu số 3354 của Viện sinh học nhiệt đới.

Cây gỗ [hình 1] vừa, cao 12-25 m, phân nhiều nhánh đối chéo nhau và nằm ngang, có chất nhựa mủ màu vàng, không lông. Thân non màu xanh lục, mặt ngoài có nhiều khía dọc, tiết diện hình chữ nhật; thân già [hình 2] màu xám đen, sần sùi có nhiều rãnh nứt dọc, tiết diện tròn. Lá đơn, mọc đối, không có lá kèm. Phiến lá [hình 3] bóng, dày và dai, hình elip thuôn dài, gốc gần tròn, mũi nhọn, màu xanh lục mặt trên đậm hơn mặt dưới, bìa nguyên, dài 19-22 cm, rộng 8-10 cm. Gân lá hình lông chim, gân chính nổi rõ ở hai mặt, gân phụ dày đặc 40-50 cặp song song khít nhau. Cuống lá [hình 4] chắc, hình trụ phẳng mặt trên và hơi phình ở đáy, có nhiều sọc ngang lồi lõm, màu xanh, dài 2-2,5 cm. Hoa mọc riêng lẻ [hình 5] hay 2-3 hoa ở nách lá hay ngọn cành. Hoa [hình 6] đều, lưỡng tính, mẫu 4. Cuống hoa ngắn hơi phình ở gốc, màu xanh, mặt ngoài có nhiều khía dọc, tiết diện đa giác, dài 0,8-1 cm. Lá bắc dạng vẩy tam giác dài 0,7-1 cm, khô xác, rụng sớm. Lá bắc con [hình 7] 2, nằm ở đoạn giữa cuống hoa, dạng vẩy tam giác đỉnh bầu, dài 0,8-1 cm, màu vàng nâu, rụng sớm. Lá đài [hình 8] 4, rời, không đều, khum hình lòng muỗng; 2 lá đài ở ngoài mặt ngoài màu xanh mặt trong màu đỏ tía, đường kính 2-2,5 cm; 2 lá đài ở trong có màu đỏ tía, đường kính 3-3,5 cm; tồn tại. Cánh hoa 4, rời, nhẵn bóng, hình bầu dục, phiến dày ở gốc mỏng dần ở đỉnh, màu vàng có lẫn màu đỏ tía, dài 3,5-4 cm, rộng 3-3,5 cm. Bộ nhị [hình 9] gồm 11-15 nhị, rời, không đều, dài 0,2-0,4 cm, đính một vòng trên đế hoa; chỉ nhị dạng sợi dẹt, màu vàng nâu, nhẵn; bao phấn hình bầu dục dẹt, màu vàng nâu, 2 ô, nứt dọc, hướng trong, đính đáy; hạt phấn [hình 10] hình bầu dục 2 đầu nhọn, dài 20-23 µm, rộng 18-20 µm, bề mặt có vân. Bộ nhụy 6-8 lá noãn dính, bầu [hình 11] trên 6-8 ô, mỗi ô 1 noãn, đính noãn trung trụ; bầu hình cầu to, đường kính 0,5-0,8 cm, màu vàng xanh; vòi nhụy rất ngắn gần như không có; đầu nhụy [hình 12] to nằm trên đỉnh bầu, dạng khối màu vàng hơi lõm ở giữa và chia thành 6-8 thùy, bề mặt có nhiều vân. Cuống hoa, đế hoa, đài hoa, cánh hoa và bầu noãn thường có chất nhựa mủ màu vàng tiết ra thành từng chấm nhỏ. Quả [hình 13] mọng hình cầu mang đài và đầu nhụy tồn tại, đường kính 5-6 cm, vỏ quả màu tím đỏ, dai, xốp. Hạt có lớp áo hạt trắng và ngọt.

Hoa thức và Hoa đồ: 


Tiêu bản

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân [hình 14]
Vi phẫu tiết diện tròn. Các mô [hình 15] gồm: Biểu bì 1 lớp tế bào hình tam giác đỉnh bầu, kích thước đều, lớp cutin [hình 16] rất dày; rải rác bị bong ra do các lớp bần và lỗ vỏ. Mô mềm vỏ đạo, tế bào hình bầu dục hay đa giác góc tù, vách dày, có tế bào mô cứng rải rác. Trụ bì hóa sợi, tế bào hình đa giác xếp thành cụm nhỏ trên đỉnh chùy libe. Hệ thống dẫn kiểu hậu thể liên tục, vùng libe dày khoảng ½ vùng gỗ. Libe 1 [hình 17] gồm vài lớp tế bào vách uốn lượn, xếp lộn xộn, bị ép dẹp thành cụm nhỏ ở dưới cụm sợi trụ bì. Libe 2 [hình 18] tạo thành chùy đỉnh nhọn kích thước gần tương đương, tế bào hình đa giác xếp thành dãy xuyên tâm khá rõ. Gỗ 2 [hình 19], mạch gỗ hình đa giác gần tròn hay bầu dục, xếp lộn xộn trong vùng mô mềm gỗ 2; mô mềm gỗ bao quanh mạch, tế bào hình đa giác, vách tẩm chất gỗ hay hóa sợi thành cụm xen lẫn nhau. Gỗ 1 [hình 20] phân bố đều, mỗi bó 2-3 mạch gỗ hình tròn, kích thước nhỏ; mô mềm gỗ 1 tế bào hình đa giác vách cellulose hay hóa mô cứng. Tia tủy phân bố đều và hẹp ở vùng gỗ loe rộng dần ở vùng libe (do mô mềm vỏ chen vào), 1-2 dãy tế bào hình đa giác thuôn. Thân già vùng tủy rất hẹp, tế bào hình bầu dục hoặc đa giác, hóa mô cứng. Nhiều túi tiết [hình 21] ly bào trong mô mềm vỏ và tủy (thân non). Nhiều tinh thể calci oxalat hình cầu gai [hình 22], hình khối [hình 23] trong mô mềm vỏ, tủy, tia libe. Tinh bột [hình 24] trong mô mềm vỏ.
[hình 25]
Gân giữa
Vi phẫu hơi lồi ở mặt trên, mặt dưới lồi hình chữ U có đỉnh nhọn. Biểu bì 1 lớp tế bào dạng hình thang đáy nhỏ phía ngoài, kích thước đều, lớp cutin rất dày. Mô mềm vỏ khuyết, tế bào hình cầu hoặc đa giác, kích thước không đều, xếp lộn xộn. Hệ thống dẫn [hình 26] gồm nhiều cung libe gỗ (9-10) xếp gần liên tục thành vòng không tròn với gỗ ở trong và libe ở ngoài, bên trong vòng libe gỗ này có 5-6 cung libe gỗ nhỏ hơn với gỗ ở trên và libe ở dưới. Mạch gỗ tế bào hình đa giác, kích thước không đều, xếp dãy không rõ; mô mềm gỗ, tế bào hình đa giác vách tẩm chất gỗ, vài tế bào hóa sợi. Libe bắt màu đậm, khó thấy rõ tế bào, vách dày, xếp lộn xộn. Bao phía ngoài bó dẫn (bên ngoài libe) có khoảng 6-7 lớp tế bào hóa sợi, tế bào hình đa giác nhỏ vách rất dày; phía trong của gỗ là vòng tế bào hóa mô cứng. Nhiều bó libe gỗ rời [hình 27] cấu tạo gồm gỗ ở trên libe ở dưới xếp trong vùng mô mềm ở 2 bên vòng libe gỗ chính, mỗi bó có vòng mô cứng bao xung quanh. Mô mềm tủy [hình 28] đạo. Nhiều túi tiết ly bào [hình 29] trong mô mềm vỏ. Tinh thể calci oxalat hình cầu gai rất nhiều trong mô mềm vỏ và tủy.
Phiến lá [hình 30]
Biểu bì trên tế bào hình vuông gần đều, biểu bì dưới tế bào hình chữ nhật nằm không đều; lớp cutin rất dày ở cả 2 biểu bì. Mô giậu 2-3 lớp, tế bào hình đa giác thuôn dài, chứa nhiều lục lạp. Mô mềm khuyết chiếm khoảng 1/10 bề dày thịt lá, tế bào hình dạng thay đổi. Nhiều túi tiết ly bào ở sát mô giậu. Trong thịt lá có nhiều bó gân phụ nhỏ bị cắt ngang với gỗ ở trên libe ở dưới được bao bởi vòng mô cứng. Tinh thể calci oxalat hình cầu gai có nhiều trong mô mềm thịt lá.
Cuống lá [hình 31]
Vi phẫu gần tròn mặt trên hơi phẳng. Biểu bì, 1 lớp tế bào hình tam giác đầu nhọn, lớp cutin rất dày. Mô mềm đạo, tế bào hình tròn hay đa giác tròn vách dày [hình 32], kích thước không đều, nhiều tế bào ở sát cung libe gỗ chứa tinh bột. Libe gỗ xếp thành hình cung chữ c [hình 33] hai đầu uốn cong vào, libe ở ngoài, gỗ ở trong. Libe gồm các tế bào hình đa giác vách dày uốn lượn, xếp lộn xộn. Mạch gỗ hình đa giác xếp thành dãy; mô mềm gỗ, tế bào hình đa giác, vách cellulose. Quanh bó dẫn (bên ngoài libe) rải rác có tế bào hóa mô cứng. Túi tiết ly bào, rất nhiều tinh thể calci oxalat hình cầu gai, tế bào có tinh bột có trong vùng mô mềm.
Vỏ quả
Vi phẫu từ ngoài vào trong gồm: Biểu bì [hình 34] 1 lớp tế bào hình chữ nhật đứng, kích thước khá đều, lớp cutin dày. Mô mềm đạo 6-7 lớp, tế bào hình đa giác, kích thước không đều, xếp lộn xộn, chứa nhiều tinh thể calci oxalat hình cầu gai và túi tiết ly bào. Mô cứng [hình 35] 12-14 lớp, tế bào hình đa giác góc tròn, vách dày, ống trao đổi rõ, kích thước không đều, xếp thành vòng gần liên tục. Mô mềm [hình 36] đạo, tế bào hình đa giác, nhiều túi tiết [hình 37] ly bào, mạch gỗ bị cắt dọc trong vùng mô mềm đạo.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột vỏ quả Măng cụt có màu nâu, không mùi, vị hơi chát, gồm các thành phần sau: Tế bào mô cứng [hình 38] nhiều, riêng lẻ hay dính nhau 2-3 tế bào, hình dạng và kích thước thay đổi, vách rất dày, ống trao đổi rõ. Sợi [hình 39] vách dày, ống trao đổi rõ, riêng lẻ hay dính lại thành đám. Mảnh mô mềm [hình 40] gồm các tế bào hình đa giác, có thể có chứa hạt tinh bột. Hạt tinh bột hình cầu, kích thước 5-10 µm, nằm riêng lẻ hay tụ lại thành đám. Mảnh mạch gồm mạch xoắn, mạch vạch [hình 41]. Tinh thể calci oxalat hình cầu gai. Khối nhựa [hình 42] có màu vàng, vàng nâu, cam.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Măng cụt hiện được trồng rộng rãi ở Nam Bộ nước ta. Ngoài ra còn được trồng ở một số nước trong khu vực như: Philippin, Indonesia, Malaysia.

Bộ phận dùng: 

Vỏ quả (Pericarpium Garciniae mangostanae), lấy ở những quả già đã chín, dùng tươi hay phơi khô.

Thành phần hóa học: 

Vỏ quả măng cụt có chứa từ 7–13% tanin. Ngoài ra còn có chất nhựa và chất mangostin (C20H22O5), có tinh thể hình phiến nhỏ, màu vàng tươi, không vị, tan trong rượu, ether và chất kiềm, không tan trong nước. Độ chảy 175 OC.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Nước sắc vỏ măng cụt làm thuốc chữa đau bụng, tiêu chảy, lỵ, có khi còn dùng chữa bệnh hoàng đản (vàng da).

Hình đính kèm
Cây gỗ
thân già
Phiến lá
Cuống lá
riêng lẻ
Hoa
Lá bắc con
Lá đài
Bộ nhị
hạt phấn
bầu
đầu nhụy
Quả
Thân
Các mô
cutin
Libe 1
Libe 2
Gỗ 2
Gỗ 1
túi tiết
calci oxalat hình cầu gai
hình khối
Tinh bột
Lá
Hệ thống dẫn
bó libe gỗ rời
Mô mềm tủy
túi tiết ly bào
Phiến lá
Cuống lá
vách dày
cung chữ c
Biểu bì
Mô cứng
Mô mềm
túi tiết
Tế bào mô cứng
Sợi
Mảnh mô mềm
mạch vạch
Khối nhựa