Phân Lớp Hành (Liliidae)

Bộ Hoa loa kèn (Liliales)

Họ Náng (Amaryllidaceae)

Chi Crinum

Loài Crinum asiaticum L.(Cây Náng Hoa Trắng)

Tên
Tên khác: 

Cây lá náng, Hoa náng, Tỏi lơi, Đại tướng quân, Chuối nước, Náng sumatra.

Tên khoa học: 

Crinum asiaticum L.

Tên đồng nghĩa: 

Crinum toxicarium L., C. Sumatranum Roxb., C. Amabile Donn., C. Cochinchinensis Roem.

Họ: 

Náng hay họ Thủy tiên (Amaryllidaceae).

Tên nước ngoài: 

Asian poison bulb, Crinole asiatique.

Mẫu thu hái tại: 

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 05-2010.

Số hiệu mẫu: 

NHT0510, được lưu tại Bộ môn Thực vật Khoa Dược.

Cây [hình 1] cỏ cao khoảng 1m, sống nhiều năm nhờ thân hành. Hành (quen gọi là củ) ở sâu trong đất, đơn độc, hình cầu, đường kính 10 cm hay hơn; phía ngoài có nhiều vảy khô xác màu trắng nâu nhạt bao bọc, tạo thành những lớp áo mỏng; phía trong là những vảy nạc, mọng nước, vảy phía ngoài dày và bao bọc hoàn toàn các vảy phía trong; các vảy gắn vào một đế hình trụ màu trắng (thân hành); thân khí sinh là thân giả cao 20-60 cm do các bẹ lá ôm chặt nhau tạo thành.
Lá đơn, mọc cách, tập trung ở gốc thành hình hoa thị. Phiến lá chất dai, hình dải dạng bản, phẳng, dày, nạc, đầu thuôn nhọn, gốc nở rộng thành bẹ, dài 85-110 cm, rộng 10-15 cm, màu xanh lục, nhẵn ở cả hai mặt, mặt trên màu sậm hơn; mép lá nguyên, không lượn sóng; gân giữa lồi ở mặt dưới, mặt trên hơi lõm xuống thành hình lòng máng, các gân bên song song.
Cụm hoa [hình 2] tán đơn độc, mọc lên từ thân hành qua nách bẹ lá, mang 25-35 hoa. Cuống của tán thẳng đứng, hơi dẹp, có khía ở giữa, nạc, đặc, dài 40-50 cm, rộng 3-5 cm, màu xanh lục, mặt ngoài láng. Tổng bao [hình 3] lá bắc là hai phiến mỏng dạng mo, tồn tại, hình bầu dục thuôn dài, đầu nhọn, dài 9-12 cm, rộng 4-5 cm, màu nâu nhạt, mặt ngoài có nhiều sọc dọc.
Hoa [hình 4] to, đều, lưỡng tính, mẫu 3, hình loa kèn, màu trắng tuyền, thơm, đứng thẳng. Cuống hoa hình trụ dẹp, gốc nở rộng, dài 1-2 cm, màu xanh, nhẵn. Lá bắc dạng phiến mỏng, hình dải, dài 8-10 cm, rộng 3-4 mm, màu nâu nhạt. Bao hoa 6 phiến, dài 15-17 cm, dính nhau bên dưới thành một ống hình trụ dài 5-6 cm, màu xanh lục nhạt, phía trên chia thành 6 phiến xếp trên 2 vòng, dài 10-11 cm, hình dải, đầu nhọn cong như móc. Nhị [hình 5] 6, rời, đính ở họng ống bao hoa trên 2 vòng, vòng ngoài xen kẽ với các phiến của bao hoa; chỉ nhị dạng sợi, thẳng đứng, dài 5-7 cm, phần trên màu tím đỏ, phần dưới màu trắng, nhẵn; bao phấn màu vàng nâu, hình dải, dài 2,5-3 cm, 2 ô, hướng trong, mở bằng đường nứt dọc, đính giữa lắc lư; hạt phấn [hình 6] rời, hình bầu dục thuôn nhọn hai đầu, có rãnh ở giữa, có gai lấm tấm, thường có 2 dạng: hạt phấn nhỏ, kích thước 50-62 µm x 20-25 µm, màu vàng sậm; hạt to, kích thước 87-100 µm x 25-50 µm, màu vàng nhạt; đôi khi hạt phấn có hình gần cầu, đường kính 48-52 µm. Lá noãn 3, dính nhau thành bầu [hình 7] dưới 3 ô, mỗi ô 1 noãn, đính noãn trung trụ; bầu hình trứng, dài 2-2,5 cm, rộng 4-5 mm, mặt ngoài nhẵn; vòi nhụy 1, dạng sợi, dài 11-12 cm, thò ra ngoài ống bao hoa và lên trên nhị, 1/3 phần trên màu tím đỏ, 2/3 phần dưới màu xanh, nhẵn; đầu nhụy 1, hình điểm, màu nâu. Quả nang, hình cầu, đường kính 3-5 cm. Hạt rộng khoảng 3 cm, có góc, có rốn hạt, nội nhũ nạc bao lấy phôi nhỏ.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Đặc điểm giải phẫu: 

Rễ [hình 8]
Vi phẫu cắt ngang hình tròn chia làm 2 vùng rõ rệt, vùng vỏ chiếm 4/5 diện tích vi phẫu, vùng trung trụ 1/5.
Vùng vỏ: Tầng lông hút chỉ còn là vết tích với một vài tế bào móp méo không đều có vách tẩm chất bần. Tầng suberoid [hình 9] 4-6 lớp tế bào hình đa giác, vách mỏng, xếp lộn xộn và khít nhau. Mô mềm vỏ [hình 10] tế bào vách cellulose, hình tròn hay bầu dục, sắp xếp lộn xộn chừa những khuyết nhỏ hay đạo ở góc giữa các tế bào. Nội bì 1 lớp tế bào hình đa giác, có đai caspari rõ.
Vùng trung trụ [hình 11]: Trụ bì 1 lớp tế bào hình đa giác, vách cellulose, xếp xen kẽ với tế bào nội bì. Libe và gỗ [hình 12] ngay sát dưới lớp trụ bì, gồm 15-21 bó libe và 15-21 bó tiền mộc xếp xen kẽ nhau trên một vòng. Bó libe từng cụm nhỏ hình bầu dục, tế bào hình đa giác, không đều, phân hoá hướng tâm. Bó tiền mộc hình tam giác đỉnh tiếp xúc trụ bì, gồm 3-6 mạch hình đa giác, không đều, phân hoá hướng tâm. Mạch hậu mộc to, gồm 17-27 mạch kích thước không đều, có thể tiếp xúc bên dưới bó tiền mộc hay không; ít khi có 1-2 mạch nằm riêng lẻ ở tâm vi phẫu. Tia tủy là vùng mô mềm giữa bó libe và bó gỗ, gồm 2-3 dãy tế bào hình đa giác, xếp khít nhau. Mô mềm tủy tế bào hình gần tròn, vách cellulose, xếp chừa những đạo nhỏ.

Thân hành
Vi phẫu cắt ngang vảy hành có hình lòng máng, dày ở vùng giữa, mỏng dần về phía hai bên.
Vùng giữa [hình 13]: Biểu bì tế bào hình đa giác hay hình chữ nhật dẹt, vách cellulose, mặt ngoài hóa cutin; tế bào biểu bì trên (biểu bì trong) nhỏ hơn tế bào biểu bì dưới (biểu bì ngoài). Mô mềm tế bào hình tròn hay đa giác, vách cellulose, chia làm 2 vùng khác nhau về cách sắp xếp của tế bào: vùng trên từ biểu bì trên đến các bó libe gỗ, 1-2 lớp ngay dưới biểu bì tế bào xếp lộn xộn chừa những đạo nhỏ ở góc giữa các tế bào, các lớp còn lại tế bào to hơn, thường xếp thành dãy dọc chừa những đạo hay khuyết nhỏ ở góc; vùng dưới các bó libe gỗ tế bào xếp lộn xộn chừa những đạo nhỏ; rải rác trong vùng mô mềm có những tế bào chứa khối chất màu vàng [hình 14]. Bó libe gỗ xếp thành một hàng hình cung ở giữa, không đều, dạng vệt dài vuông góc với biểu bì, gồm gỗ ở trên và libe ở dưới; gỗ gồm 3-5 mạch nhỏ không đều, mạch nhỏ ở trên, mạch to ở dưới, mô mềm quanh mạch gỗ tế bào hình đa giác, xếp khít nhau; libe dạng vệt dài, tế bào hình đa giác, không đều, vách méo mó, sắp xếp lộn xộn. Tinh thể calci oxalat hình kim từng bó trong tế bào hay rải rác trong vùng mô mềm.
Vùng phiến [hình 15] mỏng hai bên: Biểu bì tế bào hình đa giác hay hình chữ nhật dẹt, vách cellulose, mặt ngoài hoá cutin; tế bào biểu bì trên (biểu bì trong) nhỏ hơn tế bào biểu bì dưới (biểu bì ngoài). Mô mềm nhiều lớp tế bào, hình tròn, vách cellulose, xếp lộn xộn chừa những đạo hay khuyết nhỏ ở góc giữa các tế bào, rải rác có những tế bào chứa khối chất màu vàng; trong vùng mô mềm này, về phía trên gần biểu bì, có vùng mô mềm đặc biệt. Mô mềm đặc biệt [hình 16] gồm những tế bào không rõ hình dạng, xếp lỏng lẻo, chứa đầy những cuộn sợi (giống như cuộn chỉ len), thường bung ra thành những sợi xoắn [hình 17] rất dài; có khi sợi xoắn này xuất phát từ một số tế bào mô mềm bình thường ở phía dưới. Bó libe gỗ [hình 18] xếp thành một hàng, không đều, gồm gỗ ở trên và libe ở dưới; gỗ gồm mạch nhỏ ở trên, mạch to ở dưới, mô mềm gỗ tế bào hình đa giác xếp khít nhau; bó libe ngay dưới bó gỗ, tế bào hình đa giác, không đều, xếp lộn xộn. Tinh thể [hình 19] calci oxalat hình kim tập trung thành từng bó trong tế bào hay rải rác trong vùng mô mềm.


Vi phẫu cắt ngang có phần gân giữa lõm ở mặt trên, lồi tròn ở mặt dưới và thuôn dài ra phiến lá. Cấu tạo của gân giữa [hình 20]phiến lá [hình 21] giống nhau. Biểu bì tế bào gần như hình vuông, vách cellulose; lớp cutin mỏng; lỗ khí [hình 22] nhiều trên cả hai lớp biểu bì. Mô mềm nhiều lớp tế bào hình tròn hay đa giác, sắp xếp lộn xộn và chừa những đạo hay khuyết nhỏ; giữa 2 bó libe gỗ là một khuyết to, lớp tế bào quanh bờ khuyết thường bị rách. Bó libe gỗ [hình 23] kích thước không đều, dạng vệt dài và hẹp, xếp trên một hàng hình cung ở giữa, gồm gỗ ở trên, libe ở dưới; gỗ gồm 1-5 mạch, không đều, mạch nhỏ ở trên, mạch to ở dưới, mô mềm quanh các mạch gỗ tế bào hình đa giác, không đều, xếp khít nhau; libe dạng vệt dài, tế bào hình đa giác, không đều, vách méo mó, sắp xếp lộn xộn; trên gỗ và dưới libe thường có những cụm tế bào vách dày bằng cellulose hay tẩm chất gỗ. Cuộn sợi rải rác trong mô mềm. Tinh thể calci oxalat [hình 24] hình kim từng bó trong tế bào hay rải rác trong vùng mô mềm.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột lá màu trắng xanh, không mùi, không vị.
Soi kính hiển vi thấy: Mảnh biểu bì [hình 25] tế bào hình chữ nhật, có nhiều lỗ khí. Mảnh mô mềm [hình 26] tế bào vách mỏng và uốn lượn. Mảnh mạch [hình 27] vòng, mạch xoắn. Cuộn sợi [hình 28] nhiều, thường bung ra thành những sợi xoắn rất dài. Tinh thể [hình 29] calci oxalat hình kim dài 112-137 µm, nằm rải rác hay thành tụ thành đám.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Cây mọc hoang ở những nơi ẩm ướt hay trồng làm cảnh, trồng bằng dò. Còn thấy mọc ở Ấn Độ, Indonesia.
Ra hoa vào mùa hè.

Bộ phận dùng: 

Toàn cây (Herba Crinii asiatici). Thường dùng tươi.

Thành phần hóa học: 

Trong Náng hoa trắng có alkaloid gọi là lycorin C16H17NO4. Thân và bẹ lá chứa alkaloid: baconin, licorin, crinasiatin, hipadin; trái chứa ungeremin, criasbetain. Alkaloid được phân bố cả lá, hoa, dò, quả.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Nhân dân dùng lá cây Náng hơ nóng, đắp và bóp vào những nơi sai gân, bong gân, bầm tím, sưng tấy khi ngã. Còn dùng xoa bóp khi bị tê thấp, nhức mỏi. Không dùng để uống.
Tại Ấn Độ, người ta hay dùng củ ép lấy nước pha loãng để uống thuốc gây nôn; không gây tẩy và không gây đau đớn. Cới kiều nhỏ, nó gây buồn nôn và ra mồ hôi. Thường dùng củ tươi giã nát, thêm chừng 4 phần nước vắt lấy nước, rồi cứ vài phút lại uống chừng 8-16 g cho tới khi nôn được. Có thể thêm đường cho dễ uống. Trẻ con dùng cũng được. Cần chú ý theo dõi tránh ngộ độc. Người ta còn dùng nước ép củ để ngỏ vào tai chữa đau tai.

Hình đính kèm
Cây
Cụm hoa
Tổng bao
Hoa
Nhị
hạt phấn
bầu
Rễ
Tầng suberoid
Mô mềm vỏ
Vùng trung trụ
Libe và gỗ
Vùng giữa
khối chất màu vàng
Vùng phiến
Mô mềm đặc biệt
sợi xoắn
Bó libe gỗ
Tinh thể
gân giữa
phiến lá
lỗ khí
Bó libe gỗ
calci oxalat
Mảnh biểu bì
Mảnh mô mềm
Mảnh mạch
Cuộn sợi
Tinh thể

Bộ Hành (Liliales)

Họ Hành (Liliaceae)

Chi Allium

Loài Allium tuberosum Rottl. ex Spreng. (Cây Hẹ)

Tên
Tên khác: 

Cửu thái.

Tên khoa học: 

Allium tuberosum Rottl. ex Spreng.

Tên đồng nghĩa: 

Allium uliginosum G. Don

Họ: 

Hành (Alliaceae)

Tên nước ngoài: 

Sweet leek, Fragrant-flowered garlic, Chinese chives (Anh).

Mẫu thu hái tại: 

Tuy Hòa-Phú Yên, ngày 01 tháng 06 năm 2009.

Số hiệu mẫu: 

H 0609

Thân cỏ nhiều năm, cao 20-50 cm, có mùi hăng. Nhiều thân hành [hình 1] nhỏ, màu trắng được bao bên ngoài bởi lớp áo mỏng màu nâu vàng, dạng sợi, nối tiếp thân hành là thân rễ. Thân rễ [hình 2] màu nâu, mọc ngang hơi chếch. Lá mọc so le thành 2 dãy, hơi chụm ở gốc, hình dải, dẹp, đặc, kích thước 15-40μm 0,2-0,7 cm, bẹ lá [hình 3] dài và mỏng. Cụm hoa [hình 4] là tán giả trên trục cụm hoa thẳng đứng dài 30-50 cm. Lá bắc tổng bao dạng mo, mỏng, xẻ 1 bên hoặc xẻ 2-3 mảnh, ngắn hơn cụm hoa, khô xác và tồn tại. Trên cụm hoa [hình 5] có 20-33 hoa, đính thành 3-5 vòng. Hoa nhỏ, nụ [hình 6] hình 3 cạnh, màu trắng, đều, lưỡng tính; cuống hoa dài 1-2,5 cm, gốc có lá bắc nhỏ. Bao hoa 6 phiến, hình trứng hoặc trứng ngược, dài 4-5 mm, rộng 2,5-3 mm, rời nhau hoặc dính nhau rất ít ở đáy, xếp trên 2 vòng; mỗi phiến có 1 gân giữa màu xanh ở bên ngoài. Nhị [hình 7] 6, rời nếu bao hoa rời; trường hợp hoa có bao hoa dính nhau thì gốc chỉ nhị hợp và dính với bao hoa. Chỉ nhị dài 2-2,5 mm; bao phấn khi hoa chưa nở có màu xanh, sau khi đã nở có màu vàng, 2 ô, nứt dọc, hướng trong, đính đáy. Hạt phấn [hình 8] hình bầu dục hay chữ nhật, có rãnh dọc ở giữa, kích thước 32,5- 42,5 μm. Bầu [hình 9] trên, hình chùy ngược, có 3 thùy, giữa mỗi thùy có rãnh dọc. Mặt ngoài có những nốt nhỏ, 3 ô, mỗi ô 2 noãn, đính noãn trung trụ; 1 vòi nhụy [hình 10] rất ngắn màu trắng; đầu nhụy không rõ.

Hoa thức và Hoa đồ: 


Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân [hình 11] khí sinh cấu tạo từ nhiều bẹ lá hình vòng liên tục ôm lấy 2 lõi bên trong. Mỗi bẹ lá có phần rộng mang các bó mạch [hình 12] xếp thành một hàng và phần hẹp hơn có các bó mạch kém phát triển. Biểu bì ngoài có hình đa giác, lớp cutin khá dày, to hơn hẳn so với biểu bì trong. Biểu bì trong hình chữ nhật, bị ép dẹp, cutin mỏng. Mỗi bó mạch có từ 1-6 mạch, phân hóa ly tâm, libe chồng lên gỗ, xung quanh có thể có vòng mô cứng. Mô mềm khuyết. Trong vùng mô mềm, có một số tế bào tròn bắt màu xanh [hình 13] dày mỏng khác nhau. Các bẹ lá sẽ xếp xen kẽ với nhau để phần rộng của bẹ lá này tiếp xúc với bên hẹp của bẹ lá kia. Phần lõi thân gồm 2 mảnh úp vào nhau, có kích thước không bằng nhau, biểu bì hình đa giác, cutin dày, có nhiều lỗ khí. Mỗi mảnh của lõi đều có các bó libe gỗ kiểu chồng xếp thành 1 vòng, gỗ phân hóa ly tâm, các bó phía trong thường nhỏ hơn các bó phía ngoài. Libe chồng lên gỗ, ít thấy vòng mô cứng chung quanh. Mô mềm khuyết.
[hình 14] mặt trên lõm, mặt dưới lồi, thuôn dài hai bên. Biểu bì [hình 15] hình đa giác, cutin dày, có thể gặp cutin lồi rải rác, nhiều lỗ khí ở cả 2 mặt. Nhiều bó mạch xếp trên 2 hàng: hàng trên gỗ ở phía dưới, hàng dưới gỗ ở phía trên, các bó nằm gần biểu bì dưới to hơn các bó nằm gần biểu bì trên (hay các bó dẫn xếp thành một vòng, gỗ ở trong, libe ở ngoài). libe chồng lên gỗ, ít thấy vòng mô cứng chung quanh. Mô mềm khuyết.
Biểu bì lá [hình 16]: Các tế bào biểu bì hình đa giác rất dài. Lỗ khí giống kiểu lớp 1 lá mầm, có cả ở mặt trên và dưới như nhau. Có thể gặp cutin lồi rải rác.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột thân lá [hình 17] khí sinh màu vàng xanh, không có mùi vị rõ rệt. Thành phần gồm:
Mảnh biểu bì có các tế bào biểu bì hình đa giác rất dài, mang lỗ khí kiểu lớp Hành, có thể thấy những vòng tròn mờ của cutin lồi. Mảnh mô mềm hình chữ nhật hoặc đa giác hoặc hình tròn có chừa các đạo nhỏ. Các mảnh mạch vạch, mạch điểm.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Hẹ có nguồn gốc hoang dại ở vùng Trung và Bắc Á, được người Trung Quốc đưa về trồng khoảng 200 năm trước Công nguyên. Cây được trồng trên ruộng đất màu, bãi bồi ven sông, trên nương rẫy, trong vườn, chậu. Mùa hoa tháng 7-9, mùa quả tháng 10-11. Thường trồng vào mùa xuân hoặc thu đông bằng các thân hành.

Bộ phận dùng: 

Toàn cây (Herba Allii) thu hái quanh năm và dùng tươi.

Thành phần hóa học: 

Thân hành chứa aliin, methylaliin; lá chứa hợp chất sulfit, linalol. Trong 100 g phần ăn được của hẹ có nước 93 g, protein 2,1 g, chất béo 0,1 g, carbohydrat 2,8 g, chất xơ 0,9 g, tro 1 g, caroten 4 mg và vitamin C 25 mg. Các đường fructose, glucose, galactose và sucrose. Phân đoạn bay hơi có 36 chất, trong đó có 20 hợp chất sulfit. Hẹ còn chứa N-p. coumaryol tyramin, bis (p. hydroxyphenyl) ether và odorin.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Nước ép lá tươi và thành phần bay hơi của cây có tác dụng kháng khuẩn mạnh đối với Streptococcus hemolyticus, Salmonella tryphi, Shigella flexneri, Shigella shiga, Coli bethesda, Bacillus subtilis. Hoạt chất odorin có tác dụng ức chế mạnh Staphyllococcus aureus. Lá Hẹ tươi có tác dụng diệt trùng roi âm đạo sau 30 phút tiếp xúc. Nước ép lá Hẹ lọc bỏ cặn, tiêm tĩnh mạch cho chuột nhắt trắng với liều 0,1-0,5 ml/10 g thân trọng, xuất hiện triệu chứng choáng, vật vã, co giật và chuột chết sau nửa giờ. Hẹ được dùng làm gia vị và làm thuốc. Theo kinh nghiệm dân gian, lá và thân hành chữa ho trẻ em, hen suyễn, tiêu hoá kém, giun kim, lỵ amip, mồ hôi trộm. Liều dùng hàng ngày: 20-30 g. Hạt Hẹ chữa bệnh dương ủy, di mộng tinh, đái són, đái đàm, đau lưng, mỏi gối, khí hư với liều 4-12 g mỗi ngày.
Bài thuốc có Hẹ:
- Chữa ho trẻ em: Lá hẹ 15 g, hoa đu đủ đực 15 g, hạt chanh 20 hạt. Tấ cả dùng tươi, cho vào bát sạch, giã nát, thêm đường và 10 ml nước. Đem hấp chín để nguội, cho trẻ em uống làm 3 lần trong ngày. Dùng 3-4 ngày liên tục. Hoặc lấy lá hẹ 15 g phối hợp với lá dâu non 10 g, cách làm và dùng như trên.
- Chữa hen suyễn: Lá hẹ 50 g sắc với 200 ml nước còn 50 ml. Uống trong ngày.

Hình đính kèm
thân hành
Thân rễ
bẹ lá
Cụm hoa
cụm hoa
nụ
Nhị
Hạt phấn
Bầu
vòi nhụy
Thân
bó mạch
màu xanh
Lá
Biểu bì
Biểu bì lá
Bột thân lá

Chi Ophiopogon

Loài Ophiopogon sp. (Cây Mạch Môn Đông)

Tên
Tên khác: 

Mạch môn đông, Tóc tiên, Xà thảo lá dài

Tên khoa học: 

Ophiopogon sp.

Họ: 

Mạch môn đông (Convallariaceae)

Mẫu thu hái tại: 

Tuy Hòa - Phú Yên, ngày 01 tháng 06 năm 2009

Số hiệu mẫu: 

MM 0106

Thân cỏ nhiều năm mọc thành bụi, cao khoảng 40 cm, rễ chùm [hình 1], có những chỗ phát triển thành củ [hình 2] hình trụ, dài khoảng 1,5-2 cm, đường kính khoảng 0,6-0,9 mm, bề mặt lát cắt màu trắng, hơi trong, có lõi hẹp, mùi đặc biệt. Thân trên mặt đất ngắn. hình dải hẹp, mọc chụm dưới đất, xếp thành 2 dãy, dài 50-60 cm, rộng 0,8 cm, nhẵn, gốc có bẹ to có màng bao màu trắng ôm các bẹ lá bên trong, đầu nhọn, gân lá song song, nổi rất rõ ở mặt dưới, mặt trên xanh lục sẫm, mặt dưới trắng nhạt, mép lá bén nhọn. Từ gốc lên ngọn, lá rộng dần và dẹp dần, màu cũng đậm hơn.
Thời điểm thu hái cây không có hoa do đó chúng tôi chưa xác định được loài.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Rễ củ [hình 3]: Tầng lông hút [hình 4] có lông hút đơn bào. Tầng suberoid gồm 2-3 lớp tế bào hình đa giác xếp sát nhau, vách tẩm suberin. Mô mềm vỏ rất rộng, tế bào ở phía ngoài hình tròn hay đa giác, tế bào ở phía trong hình bầu dục theo hướng xuyên tâm; rải rác có bó tinh thể calci oxalat hình kim nhỏ hoặc lớn (hiếm gặp hơn). Nội bì hình chữ U [hình 5], trụ bì gồm 1-2 lớp tế bào, hóa mô cứng rải rác. Các bó gỗ cấp 1 phân hóa hướng tâm, xếp xen kẽ với bó libe cấp 1. Vùng mô mềm ruột hẹp gồm các tế bào có vách mỏng, kích thước nhỏ hơn tế bào mô mềm vỏ. Mạch hậu mộc nhỏ trong vùng mô mềm tủy bị hóa mô cứng.
Thân [hình 6]: Cấu tạo từ nhiều bẹ lá già bao lấy các bẹ lá non hơn. Mỗi bẹ lá già có một phần rộng ở giữa mang các bó mạch, hai đầu hẹp dần cuối cùng chỉ còn 2 lớp biểu bì nằm sát và xen kẽ nhau tạo thành màng mỏng. Tại phần mang bó mạch, dưới biểu bì [hình 7] là các tế bào vách rất dày có xu hướng phát triển thành mô cứng hoặc sợi, mô mềm vỏ khuyết gồm các tế bào tròn, vách mỏng. Các bó dẫn không đều nhau, libe [hình 8] hình nón chồng lên gỗ, các bó lớn có mô cứng bao xung quanh. Các bẹ lá non hơn chưa có màng, cấu tạo giống bẹ già nhưng các tế bào xung quanh bó mạch vẫn chưa tẩm chất gỗ, các tế bào mô mềm vỏ tạo các khuyết rộng hơn. Tinh thể calci oxalat hình kim tập trung thành bó trong tế bào mô mềm vỏ.
[hình 9]: Có tiết diện tam giác ở gần gốc, phía trên hẹp dần.
Đoạn từ gốc lá [hình 10] đến 1/2 chiều dài lá phẳng ở mặt trên và lồi ở mặt dưới. Biểu bì có cutin lồi [hình 11], phía dưới biểu bì có 3-6 lớp tế bào màng rất dày, vách vẫn còn cellulose có xu hướng phát triển thành sợi. Mô mềm vỏ khuyết, tế bào hình tròn, nhỏ, càng vào bên trong càng lớn, dẹp, hình đa giác. Trong vùng mô mềm có khoảng 5-8 bó gỗ không đều, hình dạng và cấu tạo như ở thân. Tinh thể calci oxalat hình kim tập trung thành bó trong vùng mô mềm.
Biểu bì lá: Biểu bì trên là những tế bào hình chữ nhật xếp song song với nhau, không thấy lỗ khí. Biểu bì dưới có nhiều lỗ khí kiểu lớp 1 lá mầm và bao bọc bởi cutin lồi.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột rễ củ màu vàng, vị ngọt. Thành phần gồm: mảnh bần [hình 12], tế bào hình đa giác vách dày hay hình chữ nhật xếp xuyên tâm; mảnh suberoid [hình 13], tế bào hình đa giác xếp lộn xộn; mảnh mô mềm tế bào có màng mỏng, hình tròn hoặc đa giác; tinh thể calci oxalat hình kim [hình 14] dài 40-60 µm, rộng 2-3 µm, riêng rẽ hay xếp thành từng bó; lông hút [hình 15] đơn bào; tế bào mô cứng [hình 16] hình chữ nhật có vách dày, khoang còn rộng, ống trao đổi rõ, thường xếp thành từng đám; đám tế bào mô cứng [hình 17] của vùng mô mềm [hình 18] tủy hình đa giác, khá đều nhau; các mảnh mạch [hình 19] mạng, mạch điểm.

Bộ phận dùng: 

Rễ củ (Radix Ophiopogonis japonici) đã phơi hay sấy khô.

Thu hái và chế biến: 

Thu hoạch vào mùa hạ rễ củ của cây 2-3 năm tuổi, rửa sạch, loại bỏ rễ tua; rễ củ nhỏ để nguyên, rễ củ to bổ đôi theo chiều dọc, ủ mềm, đập dẹt, rút bỏ lõi, phơi nắng nhiều lần cho gần khô (khô khoảng 70-80%) hay sấy nhẹ đến khô. Sao cách cát.

Thành phần hóa học: 

5 glucosid đã được phân lập từ rễ củ, 3 chất đầu khi thủy phân thu được diosgenin, ở chất thứ tư, genin là ruscogenin, còn chất thứ năm cho choophiogenin. Ngoài ra, còn có stigmasterol, β-sitosterol, β-D-glucosid, các hợp chất polysaccarid, tinh dầu và các thành phần như β-patchoulen, longifolen, cyperen, α-humulen, guajol, jasmolelon.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Tác dụng chống viêm rõ rệt đối với cả giai đoạn cấp tính và bán mạn tính của phản ứng viêm thực nghiệm. Tác dụng gây thu teo tuyến ức với mức độ yếu. Tác dụng ức chế tương đối khá trên phế cầu và yếu hơn trên sự phát triển của các chủng vi khuẩn: tụ cầu vàng, Shigella dysenteriae, Bacillus subtilis. Rễ củ dùng chữa ho khan, viêm họng, lao phổi, nóng âm ỉ về chiều, sốt cao, khát nước, thổ huyết, hen phế quản, khó ngủ. Còn dùng để lợi tiểu và lợi sữa, điều hòa nhịp tim khỏi hồi hộp, táo bón, lở ngứa. Ngày dùng 6-20 g, dạng thuốc sắc.

Hình đính kèm
rễ chùm
củ
Rễ củ
lông hút
Nội bì hình chữ U
Thân
dưới biểu bì
libe
Lá
lá
Biểu bì có cutin lồi
bần
mảnh suberoid
calci oxalat hình kim
lông hút
tế bào mô cứng
mô cứng
mô mềm
mảnh mạch

Bộ La Dơn (Iridales)

Họ La Dơn (Iridaceae)

Chi Belamcanda

Loài Belamcanda chinensis (L.) DC. (Cây Xạ Can)

Tên
Tên khác: 

Rẻ quạt, Lưỡi đồng

Tên khoa học: 

Belamcanda chinensis (L.) DC.

Tên đồng nghĩa: 

Belamcanda punctata Moench.

Họ: 

La dơn (Iridaceae)

Tên nước ngoài: 

Dwarf tiger-lily, Leopard flower, Blackberry lily (Anh)

Mẫu thu hái tại: 

thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 05 năm 2009

Số hiệu mẫu: 

XC 0509

Thân cỏ nhiều năm, mọc đứng, cao 0,5-1 m, đường kính 0,8-1 cm. Thân rễ [hình 1] màu vàng nâu, dài 4-9 cm, đường kính 1-2 cm. Trên thân rễ có các vết tích lá dạng những gân ngang, nhiều vết sẹo của rễ con và những rễ ngắn còn sót lại; mùi thơm nhẹ, vị đắng, hơi cay. hình gươm, xếp thành 2 dãy, hai mặt nhẵn, gần như cùng màu, dài khoảng 30 cm, rộng 1,5-2 cm, có bẹ [hình 2] ôm lấy thân, tiền khai cưỡi, gân lá song song. Các lá xếp trên một mặt phẳng và xòe ra như cái quạt. Cụm hoa [hình 3] là tán đơn mang 5-7 hoa, nhiều tán hợp lại thành cụm hoa [hình 4] phức tạp ở ngọn thân, trục cụm hoa dài 20-40 cm, tổng bao lá bắc khô xác, lá bắc con dựa trục có hình dạng giống lá bắc nhưng kích thước nhỏ hơn. Hoa đều, lưỡng tính, mẫu 3, cuống dài 2-3 cm. Bao hoa [hình 5] gồm 6 phiến dạng cánh màu vàng cam có đốm đỏ, hợp ở gốc thành ống rất ngắn, 3 lá đài ở vòng ngoài xoắn lại sau khi nở và to hơn 3 cánh hoa ở vòng trong. Lá đài tiền khai vặn ngược chiều kim đồng hồ, cánh hoa vặn theo chiều ngược lại. Nhị 3, rời, đính ở đáy ống bao hoa và xen kẽ cánh hoa. Chỉ nhị [hình 6] dạng sợi màu hồng, bao phấn [hình 7] 2 ô, thuôn dài, màu cam, thẳng khi vẫn còn nằm trong nụ, uốn cong khi hoa nở; nứt dọc, hướng ngoài. Hạt phấn [hình 8] hình bầu dục hai đầu nhọn, có rãnh dọc to và vân mạng lưới, kích thước 105-115x55-65 μm. Lá noãn 3, bầu dưới, hình trứng, 3 ô, mỗi ô nhiều noãn [hình 9], đính noãn [hình 10] trung trụ. Vòi nhụy [hình 11] màu đỏ to dần về phía đỉnh, đầu nhụy chẻ 3. Quả nang, hình trứng ngược dài 2,5 cm, rộng 2 cm, ở đỉnh mang bao hoa đã khô và xoắn lại; hạt màu đen bóng, hình cầu, đường kính 3 mm, có sọc ngang.

Hoa thức và Hoa đồ: 


Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân rễ [hình 12]
Lớp bần [hình 13] dày, tế bào hình chữ nhật khá đều, xếp xuyên tâm, bên ngoài vẫn còn biểu bì. Mô mềm [hình 14] vỏ đạo, tế bào tròn, có vách dày, chứa nhiều hạt tinh bột và tinh thể calci oxalat [hình 15] hình kim lớn, hiếm gặp các bó mạch vết tích của lá. Nội bì gồm một lớp tế bào nhỏ tạo thành vòng liên tục bao quanh phần trụ giữa. Các bó libe gỗ đồng tâm (gỗ bao quanh libe) hay bó gỗ [hình 16] hình móng ngựa kẹp libe ở giữa nằm rải rác trong vùng trung trụ, tập trung nhiều ở vùng sát nội bì, thưa hơn ở phần trung tâm. Mô mềm tủy đạo, thỉnh thoảng có chừa các khuyết nhỏ, gồm những tế bào tròn, vách khá dày có chứa hạt tinh bột và tinh thể calci oxalat hình kim lớn.
Thân
Vi phẫu [hình 17] hình bầu dục, tế bào biểu bì hình đa giác, kích thước khá đều nhau, cutin khá dày. Mô mềm vỏ khuyết gồm 8-10 lớp tế bào hình tròn, vách mỏng, rải rác có các bó libe gỗ nhỏ. Vòng mô cứng bao quanh trung trụ được tạo thành từ 3-10 lớp tế bào nhỏ, hình tròn hoặc đa giác, vòng này bị gián đoạn ở các bó mạch. Các bó libe gỗ [hình 18] đồng tâm hay bó gỗ hình móng ngựa kẹp libe ở giữa rải rác trong vùng trung trụ, tập trung nhiều ở gần vòng mô cứng; quanh bó dẫn có thể có vòng mô cứng không liên tục. Mô mềm tủy khuyết, tế bào hình tròn, vách mỏng, lớn hơn tế bào mô mềm vỏ. Tinh thể calci oxalat hình kim lớn trong cả mô mềm vỏ và tủy.
: Bẹ lá [hình 19]: hình chữ V, tế bào biểu bì dưới hình chữ nhật đứng hoặc hơi nghiêng, có nhiều lỗ khí, tế bào biểu bì trên hình chữ nhật nằm ngang, bề mặt hơi lồi, không thấy lỗ khí. Mô mềm vỏ khuyết, tế bào hình đa giác, các tế bào mô mềm gần biểu bì trên tại phần gấp lại của bẹ bị ép dẹp nên uốn lượn, xếp sát nhau và vách dày hơn. Nhiều bó libe gỗ xếp thành một hàng, gỗ ở trên, libe ở dưới. Mô mềm bên dưới libe bị hóa mô cứng. Nhiều tinh thể calci oxalat hình kim lớn rải rác trong vùng mô mềm.
Phiến lá [hình 20]: Không phân biệt rõ vùng gân giữa và thịt lá, hơi lồi lên ở những chỗ có bó mạch. Tế bào biểu bì trên và dưới hình chữ nhật, xếp đều đặn, 2 mặt đều có lỗ khí. Mô mềm khuyết, hình bầu dục, số lớp tế bào ít hơn hẳn so với phần bẹ lá. Các bó libe gỗ xếp thành 2 hàng sát 2 lớp biểu bì; libe chồng lên gỗ và hướng về phía biểu bì, quanh libe có mô cứng phát triển. Nhiều tinh thể calci oxalat hình kim nhỏ họp lại bó trong mô mềm.
Biểu bì lá [hình 21]: Biểu bì trên giống biểu bì dưới, hình thoi hay hình chữ nhật, lỗ khí nhiều ở cả 2 mặt và đặc trưng kiểu lớp 1 lá mầm.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột thân rễ [hình 22] màu vàng, không mùi, vị đắng, hơi cay. Thành phần gồm: mảnh bần, tế bào hình chữ nhật, vách dày, màu nâu; mảnh mô mềm, tế bào tròn chứa hạt tinh bột; hạt tinh bột nhỏ, hình tròn hay hình xoan, đường kính 5-17 µm, không rõ vân, riêng lẻ hay thành đám gồm 4-7 hạt đơn; tinh thể calci oxalat hình kim rất lớn nguyên hay bị đứt gãy, dài 130-160 μm, rộng 12-25 μm; mảnh mạch vạch; khối chất nhựa màu đỏ nâu.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Cây ưa sáng và có khả năng chịu hạn tốt, sinh trưởng và phát triển mạnh trong mùa mưa ẩm (ở miền Nam) và mùa xuân hè (ở các tỉnh phía Bắc). Cây trồng trên 1 năm tuổi mới có khả năng ra hoa quả. Xạ can có sức sống dai, tái sinh dinh dưỡng khỏe từ các phần của thân rễ và từ hạt.

Đặc điểm khác: 

Cỏ đa niên có căn hành. Lá song đính, dẹp như gươm, dài 30 cm, rộng 1,5-2 cm. Phát hoa thưa, trong một mặt phẳng, hoa vàng có đốm đỏ; cánh hoa hơi to hơn lá đài; tiểu nhụy 3, nang dài 2,5 cm, có sọc ngang, nở làm 3 mảnh; hột lam đen, láng.

Bộ phận dùng: 

Thân rễ (Rhizoma Belamcandae) - Thân rễ màu vàng nâu nhạt đến nâu, có những gân ngang là vết tích của lá, còn sót lại những rễ ngắn, nhiều nốt sần nhỏ là vết tích của rễ con, dài 3-10 cm, đường kính 1-2 cm, hay những phiến có dạng hình trái xoan hay tròn, dài 1-5 cm, rộng 1-2 cm, dày 0,3-1 cm, mép lồi lõm không đều, màu vàng nâu nhạt đến vàng nâu. Mặt cắt ngang nhẵn, màu trắng ngà hay vàng nhạt, nhìn rõ hai phần: phần ngoài màu sẫm, phía trong nhạt hơn, có nhiều điểm nhỏ của các bó libe gỗ. Phiến cắt dọc có vỏ ngoài màu nâu sẫm, mặt cắt có sợi dọc. Mùi thơm nhẹ, vị đắng, hơi cay.

Thu hái và chế biến: 

Thu hoạch vào đầu mùa xuân, khi cây mới nảy mầm hoặc cuối thu, khi lá khô héo, đào lấy thân rễ, loại bỏ rễ con và tạp chất, rửa sạch, ủ mềm, thái lát phơi khô. để nguyên hay được cắt thành phiến mỏng đã phơi hay sấy khô.

Thành phần hóa học: 

Thân rễ chứa tectorigenin (có tác dụng ức chế dị ứng), irigenin, tectoridin, iridin, 5, 3-dihydroxy-4’,5’-dimethoxy-6,7-methylendioxyisoflavon, dimethyltectorigenin, irisfloretin, muningin, các iristectorigenin A và B,…

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Trong thí nghiệm in vitro, cao cồn thân rễ có tác dụng ức chế các chủng vi khuẩn: liên cầu tan máu, trực khuẩn ho gà, Bacillus subtilis và có tác dụng yếu đối với tụ cầu vàng, Shigella dysenteriae. Thanh nhiệt giải độc, hoá đàm bình suyễn. Trị họng sưng đau, ho đờm, suyễn tức. Ngày dùng 3-6 g, dạng thuốc sắc hoặc bột; làm viên ngậm, uống. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.

Hình đính kèm
Thân rễ
bẹ
Cụm hoa
tán hợp lại thành cụm hoa
hoa
nhị
bao phấn
Hạt phấn
noãn
noãn
nhụy
Thân rễ
bần
Mô mềm
calci oxalat
bó gỗ
Vi phẫu
Các bó libe gỗ
Bẹ lá
Phiến lá
Biểu bì lá
Bột thân rễ