Họ Rau dền (Amaranthaceae)

Chi Achyranthes

Loài Achyranthes aspera L.(Cây Cỏ Xước)

Tên
Tên khác: 

Ngưu tất nam.

Tên khoa học: 

Achyranthes aspera L.

Tên đồng nghĩa: 

A. aspera var. rubro-fusca Wight, A. canescens R. Br., A. grandifolia Moq., A. argentea Decne, Cyathula geniculata Lour.

Họ: 

Rau dền hay Rau giền (Amaranthaceae).

Tên nước ngoài: 

Prickly chaff-flower, Achyranthe, Herbe d’Inde.

Mẫu thu hái tại: 

Hóc Môn, tháng 6/2010.

Số hiệu mẫu: 

CX0610, được lưu tại Bộ môn Thực vật Khoa Dược.

Cây [hình 1] cỏ, mọc đứng, cao 20-50 cm, có khi đến 1 m, phía gốc phân nhiều nhánh đối nhau. Thân non [hình 2] tiết diện vuông, gốc lóng phù to, màu xanh lục, có nhiều lông trắng dài và hơi nhám; thân già [hình 3] cứng, tiết diện gần tròn, có lông thưa và nhiều nốt sần.
[hình 4] đơn, mọc đối chéo chữ thập, nhiều lông trắng dài và hơi nhám. Phiến hình bầu dục hay hình trứng ngược, dài 3,5-9 cm, rộng 2,5-6,5 cm, đầu tù và có mũi nhọn ngắn, gốc thuôn nhọn, men theo cuống một đoạn 0,5 cm, mặt trên màu xanh lục sậm, mặt dưới nhạt hơn; mép lá nguyên, lượn sóng, đôi khi hơi tím; gân lá hình lông chim nổi rõ ở mặt dưới, đôi khi màu hơi đỏ ở gốc. Cuống lá dài 1-1,5 cm, màu xanh lục, hình lòng máng, hơi nở rộng phía gốc.
Cụm hoa [hình 5] gié ở ngọn cành, dài 30-40 cm, phủ đầy lông dài màu trắng; cuống cụm hoa dài 2-5 cm; trục cụm hoa có đường kính 1-2 mm, hơi thuôn nhỏ về phía ngọn; hoa xếp dãn ở phía gốc, xếp khít nhau phía ngọn, hoa lúc đầu (các hoa ở ngọn gié) mọc thẳng đứng nhưng sau khi bao phấn mở thì chúc ngược xuống.
Hoa [hình 6] nhỏ, đều, lưỡng tính, mẫu 5, khô xác, không có cánh hoa, có 1 lá bắc và 2 lá bắc con; lá bắc [hình 7] rải rác có lông dài màu trắng, một gân dọc nổi rõ ở giữa, dài 3-3,5 mm, ½ phía dưới hình bầu dục, ngang 1-1,5 mm, ½ phía trên kéo dài thành một phiến giống như gai nhọn; lá bắc con [hình 8] cứng, dài 2,5-3 mm, ½ phía dưới màu hồng đỏ, cong hình liềm, hai bên có hai cánh dạng phiến rất mỏng màu trắng, ½ phía trên màu vàng xanh và thuôn nhọn như gai. Lá đài [hình 9] 5, hơi không đều, rời, hình bầu dục thuôn nhọn, dài 4-4,5 mm, rộng 1-1,5 mm, màu xanh lục, mặt ngoài nhẵn và có 1-3 gân dọc màu vàng xanh nổi rõ, tiền khai ngũ điểm, tồn tại trên quả. Nhị [hình 10] thụ 5, xếp xen kẽ với 5 nhị lép, dính nhau phía dưới thành một ống cao khoảng 1 mm, dạng chén, phía trên rời. Nhị thụ đều, ngắn hơn lá đài, đính đối diện với lá đài; chỉ nhị hình sợi, dài 2 mm, hơi cong, màu vàng, nhẵn; bao phấn hình bầu dục thuôn, phía đầu có lông dài, màu vàng, 2 ô, hướng trong, nứt dọc, đính giữa; hạt phấn [hình 11] rời, màu vàng nhạt, hình cầu, đường kính 10-15 µm, đôi khi hình bầu dục thuôn, dài 10-15 µm, rộng 5-8 µm, bề mặt có vân hình mạng. Nhị lép là 5 phiến mỏng màu trắng, phần gốc hẹp, phần rời phía trên nở rộng hình quạt, dài 1 mm, trên đầu có nhiều tua sợi. Lá noãn 2, dính nhau tạo thành bầu [hình 12] trên 1 ô, đựng 1 noãn cong đính ở đáy bầu; bầu màu vàng, hình trụ, hơi loe ở phía trên, cao gần 1 mm; vòi nhụy 1, dài 1 mm, màu vàng, tồn tại trên quả; đầu nhụy 1, hơi loe rộng thành dạng tháp, màu vàng, phủ đầy gai thịt dài. Quả [hình 13] bế, hình trụ, dài 2-3 mm, màu nâu, được bao bọc bởi các lá đài tồn tại dạng khô xác, đựng 1 hạt.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Rễ [hình 14]
Mặt cắt ngang hình tròn, vùng vỏ chiếm 1/5 diện tích vi phẫu, vùng trung trụ 4/5.
Vùng vỏ [hình 15]: Bần thường 2-4 lớp tế bào hình chữ nhật dẹt, vách mỏng, xếp thành dãy xuyên tâm; lớp ngoài thường bị bong rách. Nhu bì 1-2 lớp tế bào hình chữ nhật rất dẹt, vách cellulose. Mô mềm vỏ 6-8 lớp tế bào hình bầu dục dẹt, xếp lộn xộn, chừa những đạo hay khuyết nhỏ.
Vùng trung trụ: Thường 3-4 vòng libe gỗ. Vòng libe gỗ chính [hình 16] ở vùng tâm vi phẫu, bị tia tủy chia thành 2-3 nhánh hình quạt, ít khi nhiều hơn; mỗi nhánh gồm libe ở trên, gỗ ở dưới; libe cấp 1 thành những cụm nhỏ, tế bào nhỏ, hình đa giác méo mó; libe cấp 2 nhiều lớp tế bào hình chữ nhật dẹt, xếp thành dãy xuyên tâm; tầng sinh libe gỗ ở giữa libe cấp 2 và gỗ cấp 2; gỗ cấp 2 gồm nhiều mạch to, kích thước không đều, sắp xếp lộn xộn, mô mềm gỗ tế bào hình chữ nhật hay hình đa giác, vách tẩm chất gỗ mỏng hay dày, xếp thành dãy xuyên tâm; gỗ cấp 1 [hình 17] gồm 2-3 bó ngay tâm vi phẫu, dưới chân tia tủy, mỗi bó gồm 3-4 mạch nhỏ, không đều, phân hóa hướng tâm; tia tủy từ tâm vi phẫu, xuyên qua vùng gỗ và loe rộng ở vùng libe, tế bào hình chữ nhật hay đa giác kéo dài, vách cellulose, xếp thành dãy xuyên tâm, thường chừa những đạo nhỏ ở góc các tế bào. Vòng libe gỗ thặng dư xuất hiện phía ngoài vòng libe gỗ chính, tuần tự từ trong ra ngoài, số vòng tăng dần theo độ già của rễ, là một vòng đều đặn hay uốn lượn không đều; libe gỗ thặng dư [hình 18] họp thành bó, kích thước không đều. Tinh thể calci oxalat hình khối nhỏ trong tế bào mô mềm.

Thân
Mặt cắt ngang thân non [hình 19] và thân trưởng thành [hình 20] có hình vuông, có nhiều góc lồi, rõ ở thân non, ít rõ ở thân trưởng thành, vùng vỏ chiếm 1/10 diện tích vi phẫu, vùng trung trụ chiếm 9/10. Mặt cắt ngang thân già [hình 21] gần như tròn.
Vùng vỏ [hình 22]: Biểu bì 1 lớp tế bào to, hình chữ nhật, hình vuông hay hình đa giác; lớp cutin dày. Lông che chở [hình 23] đa bào xếp trên một hàng dọc, kéo dài từ 1-3 tế bào biểu bì, nhiều ở thân non, ít dần khi thân già, có 2 dạng: (1) dạng lông dài nhiều, thẳng, đầu nhọn, có 2 phần: chân lông thường phình to, cấu tạo bởi 1-2 tế bào to, vách dày, mặt ngoài nhẵn; thân lông gồm 2-4 tế bào, không đều, 1-2 tế bào dưới vách mỏng, mặt ngoài thường nhẵn ít khi có vài mụn nhỏ rải rác, 1-2 tế bào trên cùng dài đến rất dài, vách dày, mặt ngoài phủ đầy mụn cóc; (2) lông ngắn ít hơn, thường cong quẹo, đầu tù, gồm 4-7 tế bào không đều, vách mỏng, mặt ngoài nhẵn. Mô dày [hình 24] 7-10 lớp tế bào hình đa giác, vách dày nhiều ở góc, sắp xếp lộn xộn, tạo thành vòng không liên tục, thường tập trung ở những góc lồi của thân. Mô mềm vỏ có 2 loại: (1) phần mô mềm xen giữa những cụm mô dày gồm 4-5 lớp tế bào nhỏ, hình tròn, chứa nhiều lục lạp, xếp chừa những khuyết nhỏ; (2) vùng mô mềm còn lại dưới mô dày 2-4 lớp tế bào to, hình bầu dục dẹt, xếp chừa những đạo. Tinh thể calci oxalat kết dính thành hình cầu gai [hình 25] hay rời rạc thành một khối vụn [hình 26] trong nhiều tế bào mô mềm, thường tập trung ở vùng ngay dưới mô dày.
Vùng trung trụ: Cụm sợi [hình 27] mô cứng to nhỏ không đều, xếp rải rác trên một vòng, tế bào hình đa giác, không đều, vách dày đến rất dày. Vòng mô dẫn có cấu tạo thay đổi ở thân non và thân trưởng thành.
- Ở thân non vòng mô dẫn không liên tục, libe và gỗ họp thành từng bó rời [hình 28], kích thước không đều, dưới những góc lồi của thân, xen kẽ với những khoảng mô mềm (khoảng gian bó); cụm sợi mô cứng ngay trên đầu mỗi bó libe gỗ. Bó libe gỗ gồm: libe thành từng cụm trên đầu bó gỗ; libe cấp 1 ở trên; libe cấp 2 ở dưới, vài lớp tế bào gần tầng sinh libe gỗ có hình chữ nhật rõ, xếp thành dãy xuyên tâm; tầng sinh libe gỗ là một vòng liên tục ở giữa libe cấp 2 và gỗ cấp 2; gỗ cấp 2 với những mạch gỗ không đều, xếp không thứ tự, mô mềm gỗ cấp 2 tế bào hình chữ nhật hay đa giác, vách hóa gỗ dày hay mỏng, xếp khít nhau; gỗ cấp 1 gồm các mạch gỗ rời nhau, không đều, phân hóa ly tâm, mô mềm gỗ tế bào hình đa giác, vách cellulose. Khoảng gian bó nhiều dãy tế bào hình chữ nhật xếp thành dãy xuyên tâm, phía trên tầng sinh libe gỗ là vùng mô mềm tế bào có vách cellulose, phía dưới là vùng mô mềm tế bào có vách hóa gỗ. Tia tủy hẹp, 1-2 dãy tế bào.
- Ở thân trưởng thành vòng mô dẫn có cấu tạo bất thường do sự xuất hiện, tuần tự từ trong ra ngoài, các tầng sinh libe gỗ phụ phía ngoài vòng libe gỗ chính. Gỗ thặng dư lúc đầu là từng bó không đều, rời, nhưng khi thân già là một vòng liên tục [hình 29]; mạch gỗ kích thước không đều, thường xếp thành từng dãy 2-5 mạch; mô mềm gỗ tế bào hình đa giác, vách tẩm chất gỗ dày hay mỏng, xếp khít nhau thành dãy xuyên tâm. Libe thặng dư bao phía ngoài vòng gỗ, lúc đầu là từng cụm nhỏ, tiếp sau là từng đoạn dài ngắn khác nhau xếp thành vòng uốn lượn ở trong vòng gỗ, cuối cùng là vòng liên tục ở thân già. Mô mềm tủy tế bào hình tròn hay hình đa giác, xếp chừa những đạo. Bó vết lá [hình 30] 2, ở giữa mô mềm tủy, xếp đối diện nhau, cấu tạo cấp 2 ít phát triển, có nhiều dạng: 2 bó có thể rời, mỗi bó gồm libe ở ngoài gỗ ở trong hay gỗ bao libe [hình 31]; 2 bó cũng có thể dính ở libe [hình 32] thành một. Tinh thể calci oxalat kết dính thành hình cầu gai hay rời rạc thành một khối vụn trong nhiều tế bào mô mềm tủy.

Gân giữa [hình 33]: mặt trên lồi thành hình chữ nhật, hơi lõm ở giữa, mặt dưới lồi tròn. Biểu bì tế bào hình bầu dục, biểu bì trên thẳng, biểu bì dưới uốn lượn tạo thành những góc lồi nhỏ; lớp cutin dày. Lông che chở nhiều, cấu tạo tương tự ở thân. Mô dày trên [hình 34] là cung liên tục, 4-6 lớp tế bào hình đa giác, vách dày rõ ở góc. Mô mềm có 2 loại: (1) phần mô mềm xen giữa những cụm mô dày gồm 3-4 lớp tế bào nhỏ, hình tròn, chứa nhiều lục lạp, xếp chừa những khuyết nhỏ; (2) vùng mô mềm còn lại tế bào hình tròn hay hình đa giác, xếp lộn xộn và chừa những đạo. Bó libe gỗ ở giữa, 4-7 bó kích thước không đều xếp thành vòng; những bó hướng xuống biểu bì dưới to, libe bao ở dưới, gỗ ở trên, có thể có cụm mô dày bao dưới libe; những bó hướng lên biểu bì trên nhỏ hơn, libe bao ở trên, gỗ ở dưới, cũng có thể có cụm mô dày bao trên libe; libe tế bào nhỏ, hình đa giác, thường méo mó, xếp không thứ tự; gỗ với nhiều mạch gỗ hình đa giác, kích thước không đều, xếp lộn xộn, mô mềm gỗ tế bào hình bầu dục hay đa giác, vách cellulose, xếp thành dãy. Mô dày dưới [hình 35] 3-5 lớp tế bào hình đa giác, vách dày rõ ở góc, tạo thành cung liên tục hay gián đoạn ở những chỗ lõm của biểu bì. Tinh thể calci oxalat hình cầu gai hay rời rạc thành khối vụn trong tế bào mô mềm.
Phiến lá [hình 36]: Biểu bì tế bào hình chữ nhật hay hình vuông, không đều; biểu bì trên tế bào to, vách dày; biểu bì dưới tế bào nhỏ hơn, có khi méo mó hay dẹt lại, vách mỏng, nhiều lỗ khí; lớp cutin mỏng ở cả hai lớp biểu bì. Lông che chở tương tự ở thân. Mô mềm giậu 3-4 lớp tế bào hình chữ nhật ngắn, các lớp dưới tế bào có thể hình gần tròn, xếp khít nhau hay có những đạo ở góc. Mô mềm khuyết tế bào to, không đều, hình gần tròn, xếp chừa khuyết nhỏ. Bó libe gỗ của gân phụ rải rác, được bao quanh bởi một vòng tế bào mô mềm, gồm vài mạch gỗ nhỏ ở trên, libe ở dưới. Tinh thể calci oxalat hình cầu gai thường trong lớp tế bào ranh giới giữa mô mềm giậu và mô mềm khuyết.
Cuống lá [hình 37]: mặt trên lõm sâu như hình chữ U, mặt dưới lồi thành 3 góc nhọn. Biểu bì tế bào hình vuông, biểu bì trên thẳng, biểu bì dưới uốn lượn tạo thành những góc lồi nhỏ; lớp cutin dày. Lông che chở nhiều, cấu tạo tương tự ở thân. Mô dày thường là vòng liên tục, ít khi gián đoạn một vài nơi, 2-4 lớp tế bào hình đa giác, vách dày rõ ở góc. Mô mềm tế bào hình tròn hay hình đa giác, xếp lộn xộn và chừa những đạo. Bó libe gỗ 5-7 bó kích thước không đều xếp thành hình cung, cấu tạo tương tự như các bó ở gân giữa. Tinh thể calci oxalat kết dính thành hình cầu gai hay rời rạc thành một khối vụn trong nhiều tế bào mô mềm.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột rễ màu vàng nhạt, vị nhạt, không mùi.
Soi kính hiển vi thấy: Mảnh mạch nhỏ, chủ yếu là mạch điểm [hình 38], mạch mạng [hình 39] ít hơn. Sợi [hình 40] xếp thành bó hoặc đứng riêng lẻ, tế bào dài hẹp, vách mỏng, màu vàng rất nhạt. Mảnh bần [hình 41] màu vàng sậm, tế bào vách dày. Mảnh mô mềm tế bào vách mỏng. Tinh thể calci oxalat nhỏ, hình khối.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Cỏ xước là một loài liên nhiệt đới, phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Ở nước ta cũng gặp khá phổ biến. Cây mọc trên bãi cỏ, nương rẫy cũ, quanh làng bản, ven đường đi, bờ bụi, nơi có ánh sáng và đất tốt, tới độ cao 1500 m. Cây ra hoa vào mùa hè và mùa thu.

Bộ phận dùng: 

Rễ (Radix Achyranthis asperae) đã phơi khô hay sấy khô.

Thành phần hóa học: 

Rễ chứa saponin, trong đó phần aglycon là acid oleanolic, phần đường là glucose, galactose, rhamnose
Rễ chứa ecdisteron, achiranthin; thân chứa K; hột chứa saponin.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Cỏ xước có vị đắng, chua, tính bình, vào 2 kinh can và thận, có tác dụng thanh nhiệt, giải biểu, khu phong trừ thấp, hoạt huyết mạnh gân. Rễ dùng trị cảm mạo phát sốt, sốt rét, lỵ, thấp khớp tạng thấp, viêm thận phù thủng, tiểu tiện không lợi, đái dắt, đái buốt, đau bụng kinh, vô kinh, kinh nguyệt không đều, đòn ngã tổn thương. Liều dùng 15-30g, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài lấy cây tươi giã đắp.

Hình đính kèm
Cây
Thân non
thân già
Lá
Cụm hoa
Hoa
lá bắc
lá bắc con
Lá đài
Nhị
hạt phấn
bầu
Quả
Rễ
Vùng vỏ
Vòng libe gỗ chính
gỗ cấp 1
libe gỗ thặng dư
thân non
thân trưởng thành
thân già
Vùng vỏ
Lông che chở
Mô dày
hình cầu gai
khối vụn
Cụm sợi
bó rời
vòng liên tục
Bó vết lá
gỗ bao libe
dính ở libe
Gân giữa
Mô dày trên
Mô dày dưới
Phiến lá
Cuống lá
mạch điểm
mạch mạng
Sợi
Mảnh bần

Chi Gomphrena

Loài G. globosa L. (Cây Cúc Bách Nhật)

Tên
Tên khác: 

Bách nhật, Nở ngày, Bông nở ngày, Thiên kim hồng, Bách nhật hồng, Thiên nhật hồng.

Tên khoa học: 

Gomphrena globosa L.

Họ: 

Rau dền (Amaranthaceae)

Tên nước ngoài: 

Glob amaranth, bachelor’s button (Anh).

Mẫu thu hái tại: 

Tp. Hồ Chí Minh ngày 12 tháng 05 năm 2010

Số hiệu mẫu: 

CBN 120510; được so giống với mẫu lưu ở Viện Sinh học nhiệt đới Tp. HCM

Cỏ đứng [hình 1] cao 30-70 cm, phân nhánh, tiết diện tròn. Thân non màu xanh bạc hay xanh tía, thân già [hình 2] màu hồng tía có mấu phù to màu hồng tía đậm hơn. Toàn cây phủ lớp lông nhám [hình 3] màu trắng. Lá [hình 4] đơn, mọc đối. Phiến lá nguyên, hình bầu dục, hai đầu nhọn, kích thước 5-12 x 2-4 cm, màu xanh đậm ở mặt trên, nhạt hơn ở mặt dưới. Gân lá [hình 5] hình lông chim, nổi rõ ở mặt dưới, gân chính có màu hồng tía ở mặt trên, 4-6 cặp gân phụ hướng cong lên ở mép lá. Cuống lá ngắn, màu xanh nhạt, hơi tía ở gốc, hình lòng máng, đáy cuống hơi phát triển ôm thân, kích thước dài khoảng 1-2 cm. Cụm hoa [hình 6] đầu cô độc ở ngọn cành trên cuống hình trụ dài 5-25 cm, bên dưới đầu có 2-3 lá bắc màu xanh, hình tròn hay hình tim rộng đỉnh hơi nhọn, kích thước 1-2 x 1-2 cm. Đế cụm hoa màu xanh, hình cầu hay bầu dục chiều dài thay đổi. Đầu mang rất nhiều hoa [hình 7]. Hoa [hình 8] vô cánh, đều, lưỡng tính, mẫu 5. Mỗi hoa có 3 lá bắc: lá bắc [hình 9] dạng tam giác nhỏ khô xác màu trắng, giữa có sọc màu tím, thường dính trên đế cụm hoa; hai lá bắc con ở hai bên, khô xác màu tím hồng, hình dải gấp đôi, kích thước 0,5-1 x 0,2 cm, ôm nhau một phần ở gốc và bao nụ hoa. Lá đài [hình 10] 5, đều, rời, khô xác, hình dải dài khoảng 0,5 cm, màu xanh có phớt tím hồng đỉnh, mặt ngoài có lông trắng [hình 11] dài xốp như bông, tiền khai năm điểm. Nhị [hình 12] 5 trước lá đài, đều, ống chỉ nhị [hình 13] màu trắng xanh dài khoảng 0,3-0,5 cm, phía trên chia 5 cặp thùy màu tím hồng; bao phấn màu vàng hình thuôn nhọn, 2 buồng, nứt dọc, đính giữa mỗi cặp thùy, hướng trong; hạt phấn [hình 14] màu vàng, rời, hình cầu, có vân mạng, đường kính 25-30 µm. Lá noãn [hình 15] 2, vị trí trước sau, bầu trên một ô hình cầu hơi dẹp, một noãn đính đáy [hình 16]; một vòi nhụy [hình 17] màu xanh ngắn 1-2 mm, hai đầu nhụy dạng sợi màu trắng xanh dài 2-3 mm, có nhiều gai nạc [hình 18]. Quả [hình 19] bế, hình cầu dẹp, khoảng 2 x 1,5 mm, màu vàng nâu, mang vòi nhụy khô xác dạng gai dài mềm ở trên. Hạt [hình 20] hình hơi cầu dẹp, khoảng 1,5 x 1,5 mm, màu nâu nhẵn bóng, có cán phôi cong.

Hoa thức và Hoa đồ: 


Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân [hình 21]
Vi phẫu hình gần tròn, hơi lồi lõm. Các mô [hình 22] từ ngoài vào trong: Biểu bì tế bào hình chữ nhật hay đa giác gần tròn, kích thước không đều, lớp cutin hơi có răng cưa, có lỗ khí [hình 23] và lông che chở [hình 24] đa bào rải rác. Lông che chở đa bào một dãy 5-7 tế bào trong đó 2-4 tế bào ở gần gốc ngắn và các tế bào phía trên dài, có gai nạc lấm tấm. Ở thân già [hình 25], tầng bì sinh thường xuất hiện dưới lớp biểu bì hoặc đôi khi trong lớp mô dày, lỗ vỏ rải rác. Bần [hình 26] nhiều lớp tế bào hình chữ nhật, không đều, xếp xuyên tâm; lục bì tế bào chữ nhật, vách uốn lượn, xếp xuyên tâm với bần. Mô dày [hình 27] góc 2-5 lớp tế bào đa giác, kích thước lớn hơn hoặc bằng tế bào biểu bì, không đều, không liên tục. Mô mềm vỏ khuyết 3-8 lớp tế bào to hình bầu dục hay đa giác gần tròn không đều, xếp nằm ngang, chừa khuyết nhỏ. Trụ bì [hình 28] 1-2 lớp tế bào hình đa giác gần tròn, hóa mô cứng thành đám. Mô dẫn [hình 29] cấu tạo bất thường gồm nhiều vòng (2-5 vòng) libe gỗ. Tượng tầng bình thường ở trong cùng tạo gỗ 2 và libe 2 không liên tục. Libe 2 vài lớp tế bào hình chữ nhật, vách mỏng, uốn lượn, xếp xuyên tâm; trên libe 2 là cụm libe 1, tế bào đa giác, vách hơi uốn lượn, xếp lộn xộn, ép dẹp. Mạch gỗ 2 hình tròn hoặc đa giác, không đều, thường xếp trên cùng một dãy, mô mềm gỗ 2 hình đa giác vách tẩm gỗ hoặc cellulose; gỗ 1 tập trung thành nhiều cụm, mỗi cụm 3-5 bó, mỗi bó 2-3 mạch xếp ly tâm, mô mềm cạnh gỗ 1 hình đa giác hoặc gần tròn vách cellulose. Các vòng mô dẫn ngoài gồm libe 2 ở ngoài và gỗ 2 ở trong xếp không liên tục bị ngăn cách bởi các dãy mô mềm vách cellulose, libe ít hơn gỗ; các vòng mô dẫn này được ngăn cách bởi mô mềm đạo cấp 2 gồm nhiều lớp tế bào gần tròn, không đều. Tia tủy 2-4 dãy tế bào đa giác xếp xuyên tâm, thường bị gián đoạn bởi các tế bào mô mềm cấp 2. Mô mềm tủy [hình 30] đạo, tế bào gần tròn, kích thước to, không đều. Rải rác trong tế bào mô mềm có tinh thể calci oxalat [hình 31] kích thước lớn đôi khi gần bằng tế bào.

Cuống lá [hình 32]
Vi phẫu hình lưỡi liềm mặt trên lõm, mặt dưới cong lồi. Biểu bì trên tế bào hình bầu dục hoặc đa giác gần tròn không đều, biểu bì dưới tế bào tròn hơn biểu bì trên, cutin răng cưa cạn không đều. Trên biểu bì có lông che chở đa bào đầu nhọn dài và lỗ khí rải rác. Mô dày góc 1-3 lớp tế bào đa giác gần tròn kích thước không đồng đều tập trung ở phần giữa và hai bên tai cuống lá. Mô mềm đạo tế bào đa giác hay gần tròn kích thước to, không đều, vách mỏng. Mô dẫn 4-10 bó kích thước to nhỏ khác nhau, libe ở dưới gỗ ở trên. Libe tế bào nhỏ hình đa giác, xếp khít nhau. Mạch gỗ tròn kích thước không đều xếp lộn xộn hoặc theo dãy xen kẽ với đám mô mềm tế bào nhỏ hình đa giác vách cellulose. Tinh thể calci oxalat hình cầu gai nằm rải rác trong các tế bào mô mềm, kích thước to có khi gần bằng tế bào mô mềm.
Gân giữa [hình 33]
Mặt trên hơi lồi có khuyết ở giữa, mặt dưới lồi. Tế bào biểu bì trên hình bầu dục hay gần tròn, tế bào biểu bì dưới nhỏ và tròn hơn biểu bì trên, lớp cutin răng cưa cạn và thưa. Cả hai biểu bì có lông che chở [hình 34] đa bào đầu nhọn dài và lỗ khí [hình 35] rải rác. Mô dày góc [hình 36] dưới biểu bì trên và trên biểu bì dưới gồm 1-3 lớp tế bào đa giác không đều. Mô mềm đạo tế bào đa giác hoặc gần tròn, không đều. Hệ thống dẫn gồm 3-7 bó dẫn [hình 37] kích thước không đều xếp theo hình cung lõm xuống. Libe tế bào đa giác nhỏ, xếp nhiều lớp lộn xộn dưới gỗ. Mạch gỗ tròn, không đều, xếp lộn xộn hoặc theo dãy xen kẽ với mô mềm đặc tế bào hình đa giác kích thước nhỏ vách dày cellulose. Hạt tinh bột [hình 38] nhỏ, thường tụ thành đám trong một số tế bào mô mềm gần vùng libe. Tinh thể [hình 39] calci oxalat hình cầu gai nằm rải rác trong vùng mô mềm.
Phiến lá [hình 40]
Biểu bì trên tế bào hình tròn hay bầu dục kích thước không đều, cutin răng cưa cạn và thưa. Biểu bì dưới giống biểu bì trên. Cả hai biểu bì rải rác có lông che chở đa bào đầu nhọn dài và lỗ khí nằm cùng mức với biểu bì. Mô mềm giậu [hình 41] nằm dưới biểu bì trên gồm 1 lớp tế bào hình chữ nhật dài hơi cong, dưới mỗi tế bào biểu bì có từ 2-5 tế bào mô mềm giậu. Mô mềm khuyết trên biểu bì dưới gồm 2-4 lớp tế bào hình đa giác hay gần tròn kích thước không đều, tạo khuyết vừa. Dưới lớp mô mềm giậu có nhiều bó dẫn phụ bị cắt ngang với gỗ ở trên libe ở dưới; các bó này xếp xen kẽ với các tế bào mô mềm kích thước nhỏ. Bao quanh mỗi bó dẫn phụ là một vòng tế bào [hình 42] mô mềm to xếp giống hình hoa thị (vòng bao bó mạch), bên ngoài có các tế bào hình dạng khác nhau có chứa nhiều lục lạp [hình 43]. Tinh thể calci oxalat trong nhiều tế bào mô mềm đặc biệt ở các tế bào mô mềm dưới lớp mô mềm giậu.
Rễ [hình 44]
Vi phẫu hình tròn, có cấu trúc [hình 45] bất thường libe gỗ. Bần [hình 46] gồm nhiều lớp tế bào hình chữ nhật, vách mỏng, thường bong tróc. Lục bì vài lớp tế bào hình chữ nhật, bị ép dẹp, xếp xuyên tâm với bần. Mô mềm vỏ đạo 5-7 lớp tế bào hình bầu dục nằm ngang, không đều, nhiều tế bào cho thấy vách ngăn phân chia. Mô dẫn [hình 47] gồm nhiều vòng (2-5 vòng) libe gỗ không liên tục. Tượng tầng bình thường tạo libe 2 và gỗ 2 trong cùng thường không liên tục bị chia cắt thành 2-3 phần bởi các tia tủy rộng. Gỗ 2 chiếm tâm, mạch gỗ 2 to, tròn hoặc đa giác, không đều, xếp lộn xộn xen kẽ với mô mềm gỗ 2 hình đa giác vách tẩm gỗ hoặc cellulose; gỗ 1 [hình 48] ở tâm còn thấy được 3-4 bó phân hóa hướng tâm dưới tia tủy, mỗi bó 3-4 mạch tròn hoặc đa giác. Libe 2 tế bào hình chữ nhật hoặc đa giác, vách lượn, xếp xuyên tâm với tế bào gỗ 2; libe 1 bên ngoài libe 2, tế bào đa giác nhỏ không đều, vách hơi lượn, xếp lộn xộn, ép bẹp. Các vòng mô dẫn ngoài do [inlne:CUCBACHNHAT_DDGPRE_tuongtangthangdu.png=tượng tầng thặng dư] trong vùng trụ bì tạo ra cũng gồm libe 2 ở ngoài và gỗ 2 ở trong, nhưng càng ra phía ngoài thì gỗ càng ít; các vòng mô dẫn này được ngăn cách bởi mô mềm đạo cấp 2 gồm nhiều lớp tế bào gần tròn, không đều. Tia tủy 2-4 dãy tế bào đa giác xếp xuyên tâm, thường bị gián đoạn bởi các tế bào mô mềm cấp 2. Hạt tinh bột rải rác trong các tế bào mô mềm.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột hoa màu hồng lẫn vàng nâu, không mùi, vị hơi ngọt chát. Thành phần gồm: Mảnh lá bắc [hình 49] màu tím hồng, tế bào đa giác dài, vách hơi răng có nhiều lỗ thông. Lông che chở [hình 50] đa bào một dãy hơi cong gãy khúc. Mảnh lá đài [hình 51], tế bào chữ nhật hơi uốn lượn. Mảnh ống nhị [hình 52] tế bào chữ nhật hoặc đa giác dài, vách có lỗ răng. Mảnh bao phấn [hình 53] màu vàng. Mảnh vỏ quả [hình 54] màu nâu nhạt, hơi nhăn, tế bào đa giác không đều. Hạt phấn [hình 55] màu vàng, hình cầu, có vân mạng, vách hơi có tia. Hạt tinh bột hình trứng hơi có cạnh, không rõ vân. Mảnh mạch vạch [hình 56], mạch xoắn [hình 57], mạch vòng [hình 58].

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Cây có nguồn gốc ở châu Mỹ, ở Việt Nam cây được trồng làm cảnh và một số mọc hoang do phát tán hạt. Cây sống một năm, ưa sáng, thích nghi với nhiều loại đất, ra hoa sau 2-2,5 tháng kể từ lúc mọc; mùa hoa: tháng 7-12.

Bộ phận dùng: 

Hoa (Flos Gomphrenae) thường được gọi là Thiên nhật hồng, ngoài ra cành và lá cũng được dùng.

Thành phần hóa học: 

Cụm hoa Cúc bách nhật chứa 8 sắc tố màu tím cấu trúc betacyamin là các gomphrenin I, II, III, IV, V, VI, VII, VIII. Ngoài ra Cúc bách nhật còn chứa amaranthin, isoamaranthin, celosianin, gomphrenol và hai saponin trong đó một chất đã được xác định là gomphrenosid.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Vị ngọt, hơi chát, tính bình, có tác dụng khử đàm, bình suyễn, tiêu viêm, chống ho.
Hoa hoặc toàn cây được dùng trong phạm vi nhân dân làm thuốc chữa hen phế quản, viêm khí phế quản cấp và mạn tính, ho, ho gà, ho ra máu, ho lao, đau mắt, đau đầu, sốt ở trẻ em, bụng trướng đau, đầy hơi, tiểu tiện khó. Dùng ngoài trị chấn thương bầm giập, bệnh ngoài da.

Hình đính kèm
Cỏ đứng
thân già
lông nhám
Lá
Gân lá
Cụm hoa
nhiều hoa
Hoa
lá bắc
Lá đài
lông trắng
Nhị
ống chỉ nhị
hạt phấn
Lá noãn
đính đáy
vòi nhụy
gai nạc
Quả
Hạt
Thân
Các mô
lỗ khí
lông che chở
thân già
Bần
Mô dày
Trụ bì
Mô dẫn
Mô mềm tủy
calci oxalat
Cuống lá
Gân giữa
 lông che chở
lỗ khí
Mô dày góc
bó dẫn
Hạt tinh bột
Tinh thể
Phiến lá
Mô mềm giậu
vòng tế bào
lục lạp
Rễ
cấu trúc
Bần
Mô dẫn
 gỗ 1
Mảnh lá bắc
Lông che chở
Mảnh lá đài
Mảnh ống nhị
Mảnh bao phấn
Mảnh vỏ quả
Hạt phấn
mạch vạch
mạch xoắn
mạch vòng