Họ Gừng (Zingiberaceae)

Chi Amomum

Loài Amomum villosum var. xanthioides (Wall.) Hu & Chen.(Cây Sa Nhân)

Tên
Tên khác: 

Sa nhân gai, Sa nhân vỏ xanh, Dương xuân sa.

Tên khoa học: 

Amomum villosum var. xanthioides (Wall.) Hu & Chen.

Tên đồng nghĩa: 

Amomum xanthioides Wall. ex Baker.

Họ: 

Gừng (Zingiberaceae)

Tên nước ngoài: 

Amone, amomum (Pháp).

Mẫu thu hái tại: 

Đồng Nai tháng 5-2010.

Số hiệu mẫu: 

SN 0510, được lưu tại Bộ môn Thực vật-Khoa Dược.

Thân khí sinh [hình 1] là thân cỏ sống nhiều năm, cao 1-3 m, tiết diện tròn, màu xanh, nhẵn, mang 18-22 lá ; đoạn thân dài 40-50 cm từ gốc lá không có phiến lá mà chỉ gồm các bẹ lá ôm sát. Thân rễ [hình 2] tiết diện tròn, đường kính 0,3-1,5 cm, màu vàng xanh, có nhiều lông mịn, chia thành nhiều lóng ngắn, ở mỗi lóng có 1 lá màu nâu, dạng vẩy khô xác, lợp lên nhau. Lá [hình 3] đơn, không cuống, mọc so le thành 2 dãy [hình 4], hình ngọn giáo gốc tròn, đầu nhọn thường có màu nâu khô xác ở các lá trưởng thành, dài 33-37 cm, rộng 5-5,5 cm, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt; gân lá lông chim, gân chính hơi lõm ở mặt trên nổi rõ ở mặt dưới, rất nhiều gân phụ song song không rõ. Bẹ lá nhẵn cứng, rìa có nhiều lông màu nâu, ôm sát vào nhau. Lưỡi nhỏ [hình 5] dài 0,4-0,5 cm dạng màng, chia 2 thùy rất cạn, rìa có rất nhiều lông mịn, giữa lưỡi nhỏ và phiến lá có nhiều lông mịn. Cụm hoa [hình 6] chùm mọc từ thân rễ, sát mặt đất, dài 18-20 cm, mang nhiều hoa màu vàng nhạt ở 9-11 cm phía trên. Hoa [hình 7] không đều, lưỡng tính mẫu 3, cuống hoa hình trụ rất ngắn, dài 0,15-0,2 cm, màu vàng xanh, nhiều lông mịn. Lá bắc [hình 8] dạng vẩy khô xác màu nâu, dài 2-3 cm, rộng 0,4-0,5 cm, lá bắc bao trọn nụ hoa, khi hoa nở hoa vượt ra khỏi lá bắc, các lá bắc xếp lợp lên nhau. Lá bắc con [hình 9] màu nâu mỏng, hình ống dài 0,8-1 cm, phía trên chia 2 thùy hình tam giác đỉnh nhọn. Đài hoa [hình 10] dính nhau ở dưới thành ống dài 1,2-1,5 cm, trên chia thành 3 thùy không đều. Tràng hoa [hình 11] dính nhau phía dưới thành ống dài 2,5-2,8 cm, trên chia 3 thùy không đều, 1 thùy lớn hình thuyền dài khoảng 1 cm dựng đứng phía sau, 2 thùy nhỏ phía trước dài khoảng 0,5 cm cong xuống phía dưới và bị che bởi cánh môi [hình 12]. Bộ nhị 1 nhị [hình 13] thụ phía sau đính trên miệng ống tràng, khi hoa nở bao phấn cong thẳng góc với chỉ nhị ; chỉ nhị [hình 14] hình lòng máng, dài 0,4-0,5 cm, màu vàng, ôm lấy vòi nhụy; bao phấn [hình 15] hình bầu dục dài 2-3 mm, màu vàng, 2 ô, nứt dọc hướng trong, chung đới kéo dài thành màng mỏng màu trắng có 3 thùy một thùy lớn ở giữa và 2 thùy nhỏ 2 bên; cánh môi do nhị lép tạo thành, đính trên miệng ống tràng, cong ra phía ngoài dạng hình muỗng úp, dài 1-1,2 cm, rộng 0,4-0,5 cm, màu trắng, có 1 rãnh cạn ở giữa, 4-5 sọc dọc màu tím, mép nguyên, đầu chia thành 2 thùy rất cạn; gốc cánh môi có nhiều lông và mang 2 vẩy mỏng dài 0,2-0,3 cm do 2 nhị bất thụ [hình 16] tạo thành. Hạt phấn [hình 17] màu vàng, hình cầu, trên bề mặt có nhiều gai ngắn, đường kính 72-75 µm. Bộ nhụy [hình 18] gồm 3 lá noãn, dính nhau tạo bầu dưới [hình 19] 3 ô, mỗi ô có nhiều noãn, đính trung trụ [hình 20] ; bầu hình trụ ngắn, dài 2,5-3 mm, có nhiều lông mịn ở mặt ngoài; 1 vòi nhụy màu trắng dạng sợi dài 3,5-4 cm, phía dưới nằm tự do trong ống tràng phía trên nằm trong chỉ nhị và ở giữa khe hở của 2 ô phấn; đầu nhụy [hình 21] hình khối không vượt qua khỏi ô phấn ở gốc vòi nhụy có 2 khối hình tháp [hình 22] màu vàng, dài 1,5-2 mm. Quả [hình 23] mọc thành cụm trên mặt đất, hình bầu dục có 3 khía dọc, dài 2-2,2 cm, rộng 1-1,2 cm, màu xanh, chín màu vàng lục, bề mặt có nhiều gai nhọn mềm; bên trong chia 3 ngăn, mỗi ngăn chứa nhiều hạt. Quả khô [hình 24] màu nâu. Hạt [hình 25] mùi thơm vị hơi cay, hình khối nhiều mặt, kích thước 0,02-0,03 cm được bao bởi 1 màng mỏng màu trắng (áo hạt). Vỏ hạt màu đen, nhăn nhúm; ngoại nhũ màu trắng, nội nhũ màu trắng ngà; phôi [hình 26] hình thuôn dài màu kem nằm giữa nội nhũ.

Hoa thức và Hoa đồ: 


Đặc điểm giải phẫu: 

Thân khí sinh [hình 27]: Cấu tạo gồm nhiều bẹ lá ôm lấy lõi thân.
- Bẹ lá [hình 28]: hình lưỡi liềm. Biểu bì trên tế bào hình đa giác khá đều, kích thước hơi to hơn biểu bì dưới. Biểu bì dưới có những đoạn lõm vào tế bào to hơn và có nhiều lông che chở đơn bào rất ngắn, cutin rất dày, nhiều lỗ khí [hình 29]. Cụm mô cứng, tế bào hình chữ nhật hoặc đa giác, vách dày hay mỏng, ống trao đổi rõ. Mô mềm đạo tế bào hình đa giác, nhiều tế bào chứa tinh bột. Nhiều bó dẫn, bó lớn xen kẽ với bó nhỏ, bó nhỏ gần sát biểu bì dưới, bó to thường ở chỗ lõm của biểu bì và nằm giữa mô mềm; ở phần giữa của bẹ lá, cạnh bó dẫn to có bó nhỏ sát biểu bì trên. Bó dẫn gồm gỗ ở trên libe ở dưới; gỗ gồm 1-2 mạch to; libe gồm nhiều lớp, tế bào hình đa giác nhỏ, xếp lộn xộn. Mô cứng bao xung quanh bó mạch.
- Lõi thân [hình 30]: Vi phẫu hình bầu dục. Biểu bì 1 lớp tế bào hình đa giác hay chữ nhật không đều, bị ép dẹp ở chỗ có bó dẫn. Mô mềm đạo tế bào hình đa giác không đều, vách mỏng, kích thước to hơn tế bào biểu bì. Mô cứng tế bào hình đa giác, kích thước nhỏ, 2-4 lớp xếp thành vòng gần như liên tục. Rất nhiều bó dẫn kích thước không đều xếp lộn xộn [hình 31] từ dưới biểu bì vào trong tủy, các bó ngoài [hình 32] vòng mô cứng kích thước lớn hơn. Mỗi bó gồm 1-4 mạch gỗ hình đa giác hay tròn, libe xếp chồng lên gỗ. Các bó dẫn ở phía ngoài vòng mô cứng được bao bởi vòng mô cứng gồm 2-3 lớp tế bào vách dày có thể hóa sợi phía trên libe; các bó trong vùng tủy [hình 33] thường chỉ có cụm mô cứng trên libe và dưới gỗ. Các bó mạch gỗ chiếm hết vùng tủy. Mô mềm tủy đạo, tế bào hình đa giác, kích thước tương đương mô mềm vỏ. Tế bào tiết có rất nhiều trong vùng tủy.
[hình 34]
Gân chính mặt trên phẳng, mặt dưới lồi tròn. Biểu bì trên [hình 35] tế bào hình chữ nhật đứng; biểu bì dưới [hình 36] tế bào hình chữ nhật, hóa mô cứng vách mỏng, có nhiều lông che chở [hình 37] đơn bào rất ngắn, cutin rất dày. Dưới biểu bì trên và trên biểu bì dưới có vài lớp tế bào hình đa giác, kích thước không đều, hóa mô cứng [hình 38] vách mỏng; trong vùng mô cứng sát trên biểu bì dưới thường gặp 1-3 tế bào mô cứng hình bầu dục vách dày, ống trao đổi rõ. Mô mềm đạo, tế bào hình đa giác, kích thước không đều. Rất nhiều bó dẫn gỗ ở trên libe ở dưới, kích thước không đều, xếp thành 2 hàng ở trên biểu bì dưới và xếp lộn xộn dưới biểu bì trên, thường gặp 1 bó giữa [hình 39] gân chính, bó to [hình 40] ở sát biểu bì dưới. Các bó dẫn được bao bởi vòng mô cứng tế bào vách dày có thể hóa sợi phía trên libe ở các bó to. Xen giữa các bó to là mô mềm chứa nhiều lục lạp và có khuyết to.
Phiến lá [hình 41]
Tế bào biểu bì trên hình đa giác, kích thước lớn hơn tế bào biểu bì dưới, cả 2 biểu bì đều có lỗ khí [hình 42] và lông che chở đơn bào ngắn nhưng nhiều ở mặt dưới. Hạ bì 1-2 lớp tế bào hình đa giác góc tù. Mô mềm đạo, 5-6 lớp, tế bào gần tròn, chứa nhiều lục lạp. Nhiều bó dẫn kích thước không đều, gỗ ở trên libe ở dưới, nhiều bó lớn nối với 2 lớp biểu bì bởi các cụm sợi.
Thân rễ [hình 43]
Vi phẫu tiết diện tròn, vùng vỏ chiếm ½ bán kính vi phẫu (đường kính vi phẫu 6 mm). Các mô [hình 44] gồm: Biểu bì 1 lớp tế bào hình đa giác hóa mô cứng vách mỏng ở vi phẫu già, ở các vi phẫu non có nhiều lông che chở đơn bào [hình 45] và lỗ khí [hình 46]. Mô mềm vỏ đạo tế bào hình đa giác, kích thước không đều. Nội bì [hình 47] hình chữ U không liên tục. Bó dẫn rất nhiều, kích thước không đều, xếp lộn xộn [hình 48] ở vùng vỏ và trung trụ. Mỗi bó gồm 1-6 mạch gỗ. Các bó dẫn vùng vỏ [hình 49] thường có bao mô cứng dày hơn các bó ở vùng trung trụ. Mô mềm tủy đạo, tế bào hình đa giác, kích thước tương đương mô mềm vỏ. Nhiều tế bào tiết [hình 50] tinh dầu trong vùng vỏ và trung trụ.
Rễ [hình 51]
Vi phẫu tiết diện tròn, vùng vỏ chiếm khoảng 2/3 bán kính vi phẫu (đường kính vi phẫu 2 mm). Các mô [hình 52] gồm: Tầng lông hút [hình 53], 1 lớp tế bào hình đa giác, kích thước khá đều, 1 vài tế bào mọc dài ra thành lông hút. Tầng suberoid [hình 54] gồm 1-2 lớp tế bào hình đa giác, xếp sát nhau. Mô mềm vỏ ngoài đạo, tế bào hình đa giác đầu tù, xếp lộn xộn; mô mềm vỏ trong [hình 55], 4-7 lớp tế bào hình bầu dục nằm ngang xếp thành vòng đồng tâm và dãy xuyên tâm. Rải rác trong mô mềm vỏ có nhiều tế bào hóa mô cứng. Nội bì [hình 56] hình chữ U rất dày, liên tục. Trụ bì, 1 lớp tế bào hình đa giác xếp xen kẽ nội bì, có xu hướng bị ép dẹp phía trên các cực gỗ, 1 vài tế bào trụ bì hóa mô cứng vách mỏng. Nhiều bó libe 1 và gỗ 1 [hình 57] xếp xen kẽ thành vòng ngay dưới trụ bì. Mỗi bó gỗ 1 gồm 1-2 mạch tiền mộc. Nhiều mạch hậu mộc to, hình đa giác kích thước không đều xếp lộn xộn quanh tủy. Mô mềm tủy [hình 58] hẹp, tế bào hình đa giác, vách hóa mô cứng dày ở quanh tủy hoặc còn cellulose ở giữa tủy.
Quả
Vỏ quả [hình 59]
Vi phẫu hình tròn mặt ngoài lồi lõm không đều. Vỏ quả ngoài [hình 60], biểu bì 1 lớp tế bào hình đa giác dẹp, kích thước không đều, hóa mô cứng vách mỏng, rải rác có lông che chở đơn bào; lớp cutin mỏng. Vỏ quả giữa [hình 61] gồm nhiều lớp tế bào hình đa giác hoặc bầu dục, vách mỏng uốn lượn, riêng 7-8 lớp mô mềm phía trên biểu bì trong tế bào hình bầu dục nằm ngang, vách dày uốn lượn, các lớp sát biểu bì trong bị ép rất dẹp khó thấy vách tế bào. Khá nhiều tế bào tiết tinh dầu hình đa giác kích thước nhỏ, trong mô mềm vỏ quả. Nhiều bó dẫn [hình 62] rời, kích thước không đều, xếp thành 1 cung gần sát vỏ quả trong. Mỗi bó gồm gỗ ở trong và libe ở ngoài; mạch gỗ hình tròn hoặc đa giác kích thước nhỏ; libe ít, tế bào hình đa giác xếp lộn xộn. Vòng mô cứng bao xung quanh bó dẫn; phía dưới gỗ là tế bào mô cứng vách mỏng uốn lượn; phía trên libe là 5-6 lớp tế bào mô cứng hình đa giác, vách dày. Vỏ quả trong [hình 63]: Lớp biểu bì dạng hình ống uốn lượn.
Hạt: Vi phẫu tiết diện đa giác; từ ngoài vào trong gồm áo hạt [hình 64], vỏ hạt [hình 64] và nhân hạt.
- Áo hạt tách rời khỏi vỏ hạt, gồm 1 lớp tế bào hình dạng thay đổi (đa giác, hình thoi, vuông), kích thước khác nhau, vách cellulose dày uốn lượn, rất dày ở vách ngoài.
- Vỏ hạt gồm vỏ ngoài và vỏ trong: Vỏ ngoài gồm 1 lớp tế bào mô cứng hình chữ nhật nằm, kích thước lớn, vách mỏng. Mô mềm đạo 4-5 lớp tế bào hình đa giác, vách uốn lượn, đôi khi thấy ống trao đổi phân nhánh trê bề mặt tế bào. Trong cùng là lớp tế bào hình chữ nhật kích thước nhỏ chứa tinh dầu. Vỏ trong gồm 1 lớp tế bào mô cứng hình chữ nhật, vách dày, màu nâu.
- Nhân hạt [hình 65] gồm: Ngoại nhũ [hình 66] rất nhiều so với nội nhũ, tế bào hình chữ nhật đứng vách hơi gấp nếp hoặc đa giác, chứa đầy tinh bột, càng vào trong kích thước nhỏ dần. Nội nhũ [hình 67], tế bào hình đa giác, vách rất mỏng hơi uốn, kích thước nhỏ, chứa nhiều hạt tinh bột. Khuyết ở giữa là vị trí của cây mầm.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột hạt màu trắng có lẫn màu nâu đen, mùi thơm, vị cay nồng, gồm các thành phần sau:
Hạt tinh bột [hình 68] hình cầu, kích thước 3-7 µm, xếp riêng lẻ hay tập trung thành cụm, nhiều hình dạng. Mảnh tế bào vỏ hạt [hình 69] tế bào hình chữ nhật, vách có chất màu vàng nâu, chứa nhiều hạt tinh bột. Tế bào ngoại nhũ [hình 70] xếp riêng lẻ hay thành đám, hình dạng và kích thước thay đổi (hình đa giác thuôn dài, hình đa giác ngắn), chứa nhiều tinh bột. Nội nhũ [hình 71] tế bào hình đa giác vách mỏng, chứa tinh bột ít hơn ngoại nhũ.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Phân bố rộng rãi ở Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam (Trung Quốc), Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan. Cây thích hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, có khả năng thích nghi rộng. Cây đặc biệt ưa ẩm, chịu bóng và có thể ưa sáng, thường mọc tập trung thành đám ở ven rừng, bờ suối. Mùa hoa: tháng 4-5; mùa quả: tháng 6-7.

Bộ phận dùng: 

Quả (Fructus Amomi xanthioidis) thu hái lúc gần chín, bóc vỏ lấy khối hạt màu trắng, phơi khô. Có thể chế biến bằng cách sao, chích muối hoặc chích gừng.

Thành phần hóa học: 

Quả chứa tinh dầu hàm lượng 2-3%, gồm D. Camphor (33,2%), D. bornyl acetat (26,5%), borneol (19,4%), D. limonene (7%), camphen (7%), paramethoxy trans-cinnamat, phellandren (2,3%), pinen (1,1%).

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Trong thử nghiệm in vitro, tinh dầu sa nhân có tác dụng ức chế các vi khuẩn theo thứ tự hoạt tính giảm: Bacillus subtilis, Bacillus mycoides, Diplococcus pneumoniae, Mycobacterium tuberculosis, Proteus vulgaris, Shigella dysenteriae, Entamoeba moshkowskii với nồng độ ức chế thấp nhất là 1:2560.
- Trong một thử nghiệm lâm sàng, hạt sa nhân có hiệu quả rõ rệt trên viêm loét dạ dày-tá tràng.
- Bài thuốc gồm hạt sa nhân, câu đằng, lá tre non và 7 dược liệu khác đã được áp dụng cho 32 bệnh nhân được chẩn đoán có xơ vữa động mạch ở lứa tuổi trên 45, có cholesterol máu từ 220 mg% trở lên, trong đó có 12 bệnh nhân có kèm tăng huyết áp; uống thuốc dạng viên hoàn trong 30-60 ngày. Kết quả 22/32 bệnh nhân đạt kết quả tốt, 9/32 bệnh nhân đạt kết quả vừa.
Là vị thuốc kích thích và giúp tiêu hóa, chữa tỳ vị khí trệ, ăn không tiêu, đau bụng lạnh, tiêu chảy, nôn ọe, động thai, kiết lỵ thuộc hàn. Còn được dùng làm gia vị chế làm rượu mùi. Hạt sa nhân giã nhỏ thành bột, dùng ngoài, chấm vào răng đau, ngâm rượu rồi ngậm chữa đau răng. Thân rễ ngâm rượu dùng xoa bóp hằng ngày chữa tê thấp.

Hình đính kèm
Thân khí sinh
Thân rễ
Lá
2 dãy
Lưỡi nhỏ
Cụm hoa
Hoa
Lá bắc
Lá bắc con
Đài hoa
Tràng hoa
cánh môi
1 nhị
chỉ nhị
bao phấn
nhị bất thụ
Hạt phấn
Bộ nhụy
bầu dưới
đính trung trụ
đầu nhụy
khối hình tháp
Quả
Quả khô
Hạt
phôi
Thân khí sinh
Bẹ lá
lỗ khí
Lõi thân
xếp lộn xộn
bó ngoài
bó trong vùng tủy
Lá
Biểu bì trên
biểu bì dưới
lông che chở
mô cứng
bó giữa
bó to
Phiến lá
lỗ khí
Thân rễ
Các mô
lông che chở đơn bào
lỗ khí
Nội bì
xếp lộn xộn
bó dẫn vùng vỏ
tế bào tiết
Rễ
Các mô
Tầng lông hút
suberoid
mô mềm vỏ trong
Nội bì
Nhiều bó libe 1 và gỗ 1
Mô mềm tủy
Vỏ quả
Vỏ quả ngoài
Vỏ quả giữa
bó dẫn
Vỏ quả trong
vỏ hạt
Nhân hạt
Ngoại nhũ
Nội nhũ
Hạt tinh bột
vỏ hạt
ngoại nhũ
Nội nhũ

Chi Curcuma

Loài Curcuma longa L. (Cây Nghệ)

Tên
Tên khác: 

Nghệ vàng, Khương hoàng, Uất kim; Cohem, Co khản mỉn(Thái); Khinh lương (Tày)

Tên khoa học: 

Curcuma longa L.

Họ: 

Gừng (Zingiberaceae)

Tên nước ngoài: 

“Common turmeric”, “Long turmeric” (Anh); “Safran des Indes “ (Pháp)

Mẫu thu hái tại: 

Mẫu thu hái vào tháng 06 năm 2009, tại huyện Krông pắc tỉnh Đắc lắc.

Cỏ [hình 1] cao khoảng 70 cm. Thân rễ [hình 2] (thường gọi củ Nghệ) hình trụ hay hình bầu dục, phân nhánh, đường kính 1,5-2 cm; có màu vàng tươi, có nhiều đốt, tại các đốt có những vảy khô do lá biến đổi thành. Lá đơn, mọc từ thân rễ. Phiến lá hình bầu dục, kích thước 22- 40 x 12 – 15 cm, đầu nhọn, bìa phiến nguyên, hơi uốn lượn; màu xanh lục đậm ở mặt trên, nhạt ở mặt dưới. Gân lá hình lông chim, gân chính nổi rõ ở mặt dưới, các gân phụ hơi lồi ở mặt trên. Bẹ lá hình lòng máng, dài 18- 28 cm, ôm sát vào nhau tạo thành một thân khí sinh giả có màu xanh, trên bẹ lá có các đường gân dọc song song. Lưỡi nhỏ là một màng mỏng màu trắng, cao 2-3 mm.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Vi phẫu thân rễ [hình 3]:
Vi phẫu hình gần tròn. Biểu bì hóa mô cứng, rải rác có lông che chở [hình 4] đơn bào. Bần gồm 3 – 4 lớp tế bào hình chữ nhật xếp xuyên tâm, vách hơi uốn lượn. Nhu bì, 2-3 lớp tế bào. Mô mềm vỏ đạo, tế bào gần tròn hoặc đa giác vách mỏng, kích thước to. Rải rác trong mô mềm vỏ có các bó libe gỗ [hình 5] cấu tạo cấp 1 với gỗ ở trong libe ở ngoài. Nội bì khung caspary, 1 lớp tế bào hình chữ nhật xếp khít nhau, kích thước bằng 1/2 – 1/3 tế bào mô mềm vỏ. Trụ bì 1-2 lớp tế bào hình chữ nhật xếp khít nhau, kích thước bắng tế bào nội bì. Nhiều bó libe gỗ có cấu tạo như các bó trong mô mềm vỏ, xếp lộn xộn. Mô mềm tủy đạo, tế bào gần tròn hoặc đa giác, vách mỏng, kích thước bằng tế bào mô mềm vỏ. Trong mô mềm vỏ và tủy rải rác có các hạt tinh bột và tế bào tiết [hình 6].
Vi phẫu lá [hình 7]:
Gân giữa: mặt trên lõm, mặt dưới lồi. Biểu bì tế bào hình chữ nhật hoặc đa giác xếp khít nhau. Mô mềm đạo tế bào gần tròn hoặc đa giác, kích thước không đều nhau. Ở phía biểu bì dưới có các bó libe gỗ lớn nhỏ xếp thành hàng xen kẽ nhau. Bó lớn có cấu tạo với gỗ ở trên, libe ở dưới. Gỗ gồm có: 1-2 mạch hậu mộc, 1-2 mạch tiền mộc; trên gỗ và dưới libe là cụm mô cứng, tế bào đa giác kích thước nhỏ, 2 – 3 lớp tế bào ở phía trên gỗ có vách mỏng, 5 – 6 lớp ở phía dưới libe có vách dày. Bó nhỏ có cấu tạo tương tự bó lớn nhưng mô cứng bao liên tục với 3 lớp tế bào hình đa giác, vách dày. Ở phía trên rải rác cũng có 4-5 bó libe gỗ có cấu tạo như trên. Các cụm mô mềm xốp xen kẽ các bó libe gỗ lớn, đôi khi bị hủy để lại một khuyết lớn; xung quanh các khuyết là các tế bào mô mềm gần tròn chứa nhiều hạt lục lạp.
Phiến lá [hình 8]: tế bào biểu bì trên lớn hơn tế bào biểu bì dưới, lỗ khí có rải rác ở cả 2 biểu bì. Mô mềm khuyết, tế bào gần tròn hoặc đa giác kích thước không đều nhau. Các bó libe gỗ cấu tạo như ở gân giữa. Vùng mô mềm khuyết ở giữa các bó libe gỗ tế bào gần tròn hoặc hình bầu dục, có khi tế bào hơi thuôn dài xếp thành một hàng giống như mô mềm giậu, chứa nhiều hạt lục lạp. Rải rác trong mô mềm là các tế bào tiết màu vàng.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột [hình 9] mịn, màu vàng tươi.
Thành phần: mảnh bần [hình 10] gồm những tế bào vách hơi uốn lượn xếp xuyên tâm. Mảnh mô mềm [hình 11], tế bào đa giác vách mỏng, chứa các hạt tinh bột. Lông che chở [hình 12] đơn bào dài. Mảnh mạch [hình 13] vạch. Nhiều hạt tinh bột [hình 14] hình trứng đầu nhọn, kích thước 22,5-30 x 12,5-17,5 µm, có vân đồng tâm và rốn lệch tâm. Tế bào chứa tinh dầu và nhựa tạo thành những đám lổn nhổn màu vàng.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Là cây trồng quen thuộc của các nước nhiệt đới. Ở Việt Nam cây được trồng khắp nơi.
Mùa hoa quả: tháng 3-5.

Bộ phận dùng: 

Thân rễ (Rhizoma Curcumae longae) thường gọi là Khương hoàng.

Thành phần hóa học: 

Nước 13,1%; protein 6,3%; chất béo 5,1%; chất vô cơ 3,5%; sợi 2,6%; carbonhydrat 69,4% và caroten tính theo vitamin A. Tinh dầu Nghệ chứa: d. phelandren 1%, d. sabinen 0,6%; cineol 1%; borneol l0,5%; zingi; beren 25%; sesquiterpen (tuemeron) 58%...Các chất màu phenolic trong củ Nghệ chủ yếu là dẫn chất của diarylheptan, 3 chất chủ yếu là curcumin, bis(4-hydroxy-cinnamoyl)- methan và 4-hydroxycinamoyl feruloyl methan.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Thân rễ Nghệ dùng chữa kinh nguyệt không đều, bế kinh ứ máu, vùng ngực bụng trướng, đau tức, dạ dày viêm loét, ung nhọt, ghẻ lở, phong thấp, tay chân đau nhức, vàng da. Ở Trung Quốc, Nghệ dùng làm thuốc kích thích, bổ, giảm đau, cầm máu và tăng cường chuyển hóa, trị loét dạ dày tá tràng…Ở các nước Đông Nam Á, Nghệ được xem là có tác dụng bổ dạ dày, gây trung tiện, bổ máu, chữa vàng da và bệnh gan khác. Tác dụng bảo vệ tế bào gan là do hợp chất curcumin có trong thân rễ Nghệ.

Hình đính kèm
Cỏ
Thân rễ
Vi phẫu thân rễ
 lông che chở
bó libe gỗ
 tế bào tiết
Vi phẫu lá
Phiến lá
Bột
mảnh bần
Mảnh mô mềm
Lông che chở
Mảnh mạch
hạt tinh bột

Chi Kaempferia

Loài Kaempferia galanga L.(Cây Địa Liền)

Tên
Tên khác: 

Thiền liền, Lương khương.

Tên khoa học: 

Kaempferia galanga L.

Họ: 

Gừng (Zingiberaceae).

Tên nước ngoài: 

East indies galingale, kaempférie, faux galangal.

Mẫu thu hái tại: 

Vườn quốc gia Lò gò Xa mát, tỉnh Tây Ninh, tháng 6/2010

Số hiệu mẫu: 

ĐL0610, được lưu tại Bộ môn Thực vật Khoa Dược.

Thân cỏ [hình 1] sống nhiều năm nhờ thân rễ, rễ có khi phình thành củ nhỏ hình trứng. Thân rễ [hình 2] phình thành nhiều củ cạnh nhau, mùi thơm và cay, lớp vỏ ngoài màu nâu vàng, mặt cắt ngang gần tròn, đường kính 2-3 cm, màu vàng nhạt, có nhiều xơ màu trắng, chia làm 2 vùng bằng một vòng ranh giới màu trắng.
[hình 3] đơn, thường 2 (ít khi 3) lá mọc xòe sát mặt đất. Phiến lá hình bầu dục, dài 8-9 cm, rộng 6-7 cm, ngọn lá nhọn, gốc thuôn; mặt trên gần như nhẵn, màu xanh lục sậm; mặt dưới nhiều lông mịn và dài, màu trắng xanh, vùng ngọn màu đỏ tía; mép lá nguyên, hơi gợn sóng, viền trắng hay đỏ tía; gân lá song song, cong về phía ngọn lá, gân giữa to, lõm ở mặt trên, lồi ở mặt dưới. Bẹ lá dài 2,5-3 cm, rộng 1,5-2 cm, hình lòng máng, dày, phía gốc màu trắng, phía trên màu xanh lục nhạt, nhiều gân dọc song song, ôm chặt nhau thành một thân giả cứng cao 1,5 cm. Lưỡi nhỏ dạng màng mỏng, màu trắng có rìa nâu, cao 1-2 mm.
Cụm hoa [hình 4] mọc lên từ thân rễ, đi qua ống tạo bởi các bẹ lá, không cuống, mang nhiều hoa, thường mỗi lần chỉ có 1 hoa nở. Hoa [hình 5] to, không cuống, không đều, lưỡng tính, mẫu 3. Lá bắc dạng phiến mỏng, uốn cong hình lòng máng, đầu thuôn nhọn, dài 3-3,5 cm, rộng 1-1,5 cm, phía gốc màu trắng, phía trên màu xanh lục nhạt. Lá bắc con ở phía trục hoa đối diện lá bắc, chẻ dọc từ gốc thành 2 phiến rời dạng dải hẹp, dài 2-2,5 cm, rộng 1-1,5 mm, màu trắng, có gân dọc ở giữa. Lá đài [hình 6] ở hoa nụ dính nhau thành một ống kín, màu trắng, dài 2,8-3 cm, đỉnh chia 2 răng rất nhỏ; khi hoa nở ống đài xẻ dọc ở phía trước từ đỉnh xuống một đoạn 0,5 cm. Cánh hoa [hình 7] màu trắng, dính nhau bên dưới thành một ống hẹp, dài 4,5-5 cm, trên chia thành 3 phiến mỏng, không đều, dạng dải, dài 2-2,5 cm, đầu nhọn uốn cong ra phía ngoài, hai mép thường cuộn vào phía trong, có nhiều gân dọc; phiến giữa ở phía sau rộng 4-5 mm, hai phiến bên rộng 2-3 mm. Nhị [hình 8] đính trên miệng ống tràng thành 2 vòng: (1) vòng ngoài gồm 2 nhị lép phía sau ở hai bên biến đổi thành 2 phiến màu trắng, dài 18-20 mm, rộng 8-10 mm, gốc thuôn hẹp hơi dày thành một cán dài 5 mm, phía trên nở rộng thành hình bầu dục đầu nhọn, nhiều gân dọc; nhị trước trụy không còn dấu vết; (2) vòng trong gồm 2 nhị lép phía trước và 1 nhị thụ phía sau; nhị lép dính nhau thành một cánh môi [hình 9] to, màu trắng, gốc có bớt tím ở giữa, giữa phần màu tím có một vệt dài màu vàng, dài 25-35 mm, phía dưới thuôn hẹp thành một cán dài 15-20 mm, rộng 8-10 mm, phía trên là một phiến rộng dài 10-15 mm, rộng 20-24 mm, chia làm 2 thùy; nhị thụ đứng đối diện với cánh môi; chỉ nhị không có; bao phấn dạng phiến, màu trắng, dài 4-4,5 mm, rộng 2-3 mm, mặt trong mang 2 ô phấn xếp dọc, mọng nước; chung đới [hình 10] kéo dài thành một phiến mỏng dài 4-4,5 mm, rộng 2-3 mm, màu trắng, uốn ra phía ngoài khi hoa nở, chia 2 thùy hình bầu dục, uốn cong xuống phía dưới; hạt phấn [hình 11] màu trắng, thường hình cầu, đường kính 100-110 µm, có khi hình bầu dục hay hình trứng, dài 110-155 µm, rộng 100-112 µm. Lá noãn 3, dính nhau thành bầu [hình 12] dưới 3 ô [hình 13], mỗi ô 2 hàng noãn, đính noãn trung trụ; bầu màu trắng ngà, dẹp, dài 2,5-3 mm, rộng 1-1,5 mm, rải rác lông mịn màu trắng; vòi nhụy 1, dạng sợi, nhẵn, màu trắng, dài 40-45 mm, đi qua khe dọc giữa 2 ô phấn [hình 14]; đầu nhụy 1, màu trắng, loe thành hình phễu miệng có rìa lông.

Hoa thức và Hoa đồ: 


Đặc điểm giải phẫu: 

Rễ [hình 15]
Vi phẫu cắt ngang hình tròn, chia làm 2 vùng rõ rệt, vùng vỏ chiếm ¾ diện tích vi phẫu, vùng trung trụ chiếm 1/4 .
Vùng vỏ: Tầng lông hút với nhiều lông hút rõ ở những rễ non, ở rễ già chỉ còn vết tích tầng lông hút với một vài tế bào móp méo không đều, vách tẩm chất bần. Tầng suberoid [hình 16] 3-5 lớp tế bào hình đa giác, vách mỏng, xếp khít nhau thành từng dãy so le. Mô mềm vỏ tế bào vách cellulose, chia làm 2 vùng: (1) mô mềm vỏ ngoài nhiều lớp tế bào hình tròn hay bầu dục méo mó, sắp xếp lộn xộn, chừa những đạo hay khuyết nhỏ; (2) mô mềm vỏ trong 2-5 lớp tế bào hình bầu dục, càng vào phía trong tế bào càng nhỏ, xếp thành dãy xuyên tâm và vòng đồng tâm, chừa những khuyết nhỏ. Nội bì 1 lớp tế bào hình chữ nhật hay hình bầu dục dẹt, vách trong và 2 vách bên tẩm ligno-suberin dày lên thành khung hình chữ U rõ. Tế bào tiết [hình 17] tinh dầu nhiều, rải rác trong vùng mô mềm vỏ; tinh dầu màu vàng sậm.
Vùng trung trụ [hình 18]: Trụ bì 1 lớp tế bào hình đa giác hay hình bầu dục dẹt, vách cellulose, xếp xen kẽ với tế bào nội bì. Bó dẫn cấp 1 ngay dưới trụ bì, gồm 12-14 bó libe và 12-14 bó gỗ xếp xen kẽ nhau trên một vòng. Bó libe thành từng cụm nhỏ hình bầu dục, phân hoá hướng tâm. Bó tiền mộc gồm 2-3 mạch nhỏ không đều, phân hoá hướng tâm với mạch nhỏ phía ngoài, mạch to phía trong. Mạch hậu mộc 8-10, có thể tiếp xúc hay không tiếp xúc với bó tiền mộc. Tia tủy 1-2 dãy tế bào mô mềm ở giữa bó libe và bó gỗ. Mô mềm tuỷ chia 2 vùng: vùng ngoài tế bào hình đa giác, vách dày tẩm chất gỗ, xếp khít nhau; vùng trong tế bào hình tròn, vách cellulose, xếp chừa những đạo. Tế bào tiết tinh dầu rải rác trong vùng mô mềm tủy.
Thân rễ [hình 19]
Vi phẫu cắt ngang hình gần tròn, vùng vỏ gần bằng vùng trung trụ.
Vùng vỏ: Bần [hình 20] 5-8 lớp tế bào hình chữ nhật, vách mỏng, xếp thành dãy xuyên tâm. Nhu bì 2-3 lớp tế bào rất dẹt, vách cellulose. Mô mềm vỏ nhiều lớp tế bào hình tròn hay hình đa giác, xếp lộn xộn và chừa những đạo nhỏ, vài lớp tế bào gần nội bì chứa rất nhiều tinh bột. Bó libe gỗ nhiều, rải rác trong vùng mô mềm, libe ở trên, gỗ ở dưới; gỗ gồm 2-3 mạch nhỏ không đều được bao quanh bởi các tế bào mô mềm hình đa giác, vách cellulose; bao xung quanh bó libe gỗ thường có những tế bào vách cellulose dày. Nội bì 1 lớp tế bào hình chữ nhật dẹt, không đều, có đai caspari rõ. Tế bào tiết tinh dầu rất nhiều trong vùng mô mềm, tinh dầu màu vàng sậm.
Vùng trung trụ [hình 21]: Mô mềm tủy tế bào tương tự mô mềm vỏ, chứa rất nhiều tinh bột [hình 22]; vài lớp tế bào ngay dưới nội bì không chứa tinh bột. Bó libe gỗ [hình 23] rải rác khắp vùng mô mềm, cấu tạo tương tự bó ở vùng vỏ, kích thước không đều, bó bên ngoài nhỏ, càng vào tâm vi phẫu bó càng to; bó libe gỗ đầu tiên có thể tiếp xúc với nội bì hay cách nội bì 1-3 lớp tế bào mô mềm. Tế bào tiết [hình 24] tinh dầu rải rác khắp mô mềm tủy.


Gân giữa lõm ở mặt trên, lồi ở mặt dưới. Biểu bì tế bào hình bầu dục, tế bào biểu bì trên to hơn tế bào biểu bì dưới; lớp cutin có răng cưa. Lông che chở ít gặp, đơn bào, dạng sợi hẹp và rất dài, đầu nhọn, kéo dài từ 1 tế bào biểu bì. Mô mềm có những khuyết to xếp thành một hàng xen giữa 2 bó libe gỗ, chia làm 4 vùng: (1) mô mềm trên (vùng ngay dưới biểu bì trên) tế bào to, nhỏ dần về phía dưới, hình gần tròn, xếp chừa những đạo rất nhỏ; (2) mô mềm giữa quanh bó libe gỗ và ở bìa các khuyết thì tế bào nhỏ, hình bầu dục, chứa nhiều lục lạp, xếp chừa những khuyết nhỏ; (3) mô mềm xốp trong các khuyết to có tế bào hình sao phân nhánh, thường bị hủy; (4) mô mềm dưới (vùng ngay trên biểu bì dưới) 5-7 lớp tế bào hình đa giác, xếp chừa những đạo rất nhỏ. Bó libe gỗ [hình 25] cấp 1 kích thước không đều, xếp thành 2 lớp: lớp trên là 3 bó nhỏ, xếp ở giữa gân; lớp dưới là các bó to, xếp xen kẽ với các khuyết to. Mỗi bó gồm gỗ ở trên, libe ở dưới; gỗ gồm mạch gỗ nhỏ, không đều, sắp xếp lộn xộn, mô mềm gỗ hình đa giác, xếp khít nhau, vách cellulose; trên bó gỗ và bao dưới bó libe thường có cụm mô cứng; bao quanh bó libe gỗ là vùng mô mềm với những tế bào nhỏ, chứa nhiều lục lạp.
Phiến lá [hình 26]: Biểu bì tế bào hình đa giác hay hình chữ nhật dẹt, lớp cutin có răng cưa; biểu bì trên tế bào to, ít lỗ khí; biểu bì dưới tế bào nhỏ, nhiều lỗ khí [hình 27]. Lông che chở cấu tạo tương tự ở gân lá. Mô mềm chia làm 4 vùng: (1) mô mềm trên (vùng ngay dưới biểu bì trên) tế bào rất to, hình gần tròn, xếp chừa những đạo rất nhỏ, lớp tế bào dưới cùng hình trứng; (2) mô mềm giữa [hình 28] bao quanh và nối liền các bó libe gỗ tế bào nhỏ, hình bầu dục, chứa nhiều lục lạp, xếp chừa những khuyết nhỏ hay đôi khi bị hủy tạo thành những khuyết to; (3) mô mềm xốp trong các khuyết to có tế bào hình sao phân nhánh, thường bị hủy; (4) mô mềm dưới (vùng ngay trên biểu bì dưới) 5-7 lớp tế bào nhỏ, hình đa giác, xếp chừa những khuyết to hay nhỏ. Bó libe gỗ cấu tạo tương tự ở gân giữa và thường được bao quanh bởi một vòng tế bào mô mềm hình bầu dục hay gần tròn. Tế bào tiết tinh dầu rải rác trong mô mềm.
Bẹ lá [hình 29]: Vi phẫu cắt ngang lõm sâu ở mặt trên. Biểu bì, lông che chở và mô mềm tương tự như gân giữa lá. Bó libe gỗ [hình 30] cấu tạo tương tự ở gân giữa, kích thước không đều, xếp thành 3 lớp hướng về biểu bì dưới; các bó ở lớp giữa to, xen kẽ các khuyết, vùng mô mềm bao quanh chứa nhiều lục lạp; các bó ở trên và ở dưới các khuyết (gần sát biểu bì) rất nhỏ; trên bó gỗ và dưới bó libe có thể có cụm mô cứng hay mô dày. Tế bào tiết tinh dầu rải rác trong vùng mô mềm.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột màu trắng ngà, mùi thơm cay.
Soi kính hiển vi thấy: Mảnh bần [hình 31] màu nâu nhạt, tế bào vách dày. Mảnh mô mềm [hình 32] tế bào vách mỏng, có chứa nhiều tinh bột hoặc chứa tinh dầu [hình 33] màu vàng sậm. Mảnh mạch xoắn [hình 34], mạch vạch. Hạt tinh bột [hình 35] rất nhiều, hình trứng hay hình bầu dục, kích thước 16-32,5 x 7,5-22,5 µm, đôi khi hình 3 cạnh hay hình tròn, đường kính 8,5-22,5 µm, có rốn và vân không rõ.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Phân bố ở Ấn Độ, Lào, Campuchia, Trung Quốc, Malaysia, Inđônêxia, Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc hoang ở nhiều nơi, thường gặp dưới tán rừng ẩm ướt hoặc được trồng làm cảnh và lấy củ làm thuốc.

Bộ phận dùng: 

Thân rễ (Rhizoma Kaempferiae), thái miếng phơi hay sấy khô.

Thành phần hóa học: 

Trong Địa liền có tinh dầu, trong tinh dầu thành phần chủ yếu là bocneola metyl, aldehyd cinamic, cinamat etyl, p-metoxycinamat etyl, kaempferol, kaepferid-4’-metyl este, 1,8-cineol, pentadecan, xineola

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Địa liền có công năng ôn trung tiêu, tán hàn, trừ thấp, kiện tỳ vị; chủ trị tê thấp, đau nhức xương khớp, nhức đầu, răng đau, ngực bụng lạnh đau, tiêu hoá kém; còn dùng trị tiêu chảy, hắc loạn và ho gà. Ngày dùng 4 - 8 g, dạng thuốc sắc, bột hoặc viên. Ngâm rượu 40 - 50% trong 5 - 7 ngày để xoa bóp. Thường phối hợp với các vị thuốc khác.

Hình đính kèm
Thân cỏ
Thân rễ
Lá
Cụm hoa
Hoa
Lá đài
Cánh hoa
Nhị
cánh môi
chung đới
hạt phấn
bầu
3 ô
giữa 2 ô phấn
Rễ
suberoid
Tế bào tiết
Vùng trung trụ
Thân rễ
Bần
Vùng trung trụ
tinh bột
Bó libe gỗ
Tế bào tiết
Bó libe gỗ
Phiến lá
lỗ khí
mô mềm giữa
Bẹ lá
Bó libe gỗ
Mảnh bần
Mảnh mô mềm
tinh dầu
mạch xoắn
Hạt tinh bột

Chi Zingiber

Loài Zingiber officinale (Willd.) Roscoe (Cây Gừng)

Tên
Tên khác: 

Khương

Tên khoa học: 

Zingiber officinale (Willd.) Roscoe

Họ: 

Gừng (Zingiberaceae)

Tên nước ngoài: 

Zingiber (Anh), Gingembre, Amome des Indes (Pháp)

Mẫu thu hái tại: 

Tuy Hòa-Phú Yên, ngày 01 tháng 06 năm 2009

Số hiệu mẫu: 

G 0609

Thân [hình 1] khí sinh là thân cỏ nhiều năm, cao khoảng 1 m. Thân rễ [hình 2] có khi phồng thành củ. Thân rễ (quen gọi là củ) không có hình dạng nhất định, phân nhánh trên một mặt phẳng, làm thành nhiều đốt, kích thước không đều, dài 3-7 cm, dày 0,5-1,5 cm, mặt ngoài màu trắng tro hay vàng nhạt, có vết nhăn dọc, ở đầu đốt có vết tích của thân cây đã rụng, trên các đốt có vết sẹo của các lá khô (vảy), vết bẻ màu trắng tro hoặc ngà vàng, lõi tròn [hình 3] rõ, mùi thơm, vị cay nóng. Lá không cuống, mọc so le thành 2 dãy, hình ngọn giáo, thắt lại ở gốc, đầu nhọn dài 15-20 cm, rộng 2 cm, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt; gân lá song song. Bẹ nhẵn, có thể ôm vào nhau thành một thân giả. Lưỡi nhỏ [hình 4] dạng màng, nhẵn, chia 2 thùy cạn.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân rễ [hình 5]
Biểu bì gồm một lớp tế bào hình chữ nhật, nhỏ xếp tương đối đều đặn. Dưới lớp biểu bì là mô mềm vỏ gồm 5-6 lớp tế bào hơi dẹp, vách tẩm chất gỗ. Phía dưới lớp mô mềm vỏ này có khoảng 5 lớp bần [hình 6]. Mô mềm vỏ khuyết, tế bào tròn, vách mỏng, có thể bị bẹp lại và nhăn nheo đối với thân rễ già. Nội bì đai Caspary, trụ bì gồm 1 lớp tế bào kích thước không đều, có xu hướng bị ép dẹp bởi các bó libe gỗ nằm gần đó. Vòng nội bì và trụ bì gần như liên tục. Mô mềm tủy là những tế bào hình tròn, to hơn tế bào mô mềm vỏ. Rất nhiều bó libe gỗ tập trung thành 1 vòng sát trụ bì và rải rác khắp mô mềm vỏ và mô mềm tuỷ. Mỗi bó có 1-6 mạch gỗ, libe chồng lên gỗ. Tế bào tiết [hình 7] chứa tinh dầu màu vàng tươi rất nhiều trong mô mềm vỏ và tủy.
Thân khí sinh [hình 8]
Cấu tạo từ nhiều bẹ lá ôm lấy lõi thân.
- Bẹ lá: Hình lưỡi liềm. Biểu bì trên hình đa giác, có kích thước lớn hơn biểu bì dưới. Mô mềm khuyết. Các bó mạch nhỏ, gồm từ 1-6 mạch gỗ, gỗ ở trên, libe ở dưới, các tế bào xung quanh hóa mô cứng. Tại đoạn có bó mạch, mô mềm và biểu bì bị ép dẹp. Ở bẹ lá ngoài cùng rải rác có biểu bì tiết.
- Thân: vi phẫu hình bầu dục. Tế bào biểu bì hình chữ nhật, nhỏ. Dưới biểu bì là mô mềm khuyết hay đạo, tế bào hình tròn, vách mỏng. Trụ bì gồm 2-3 lớp tế bào uốn lượn tạo thành 1 vòng liên tục. Bên trong và ngoài vòng trụ bì có nhiều bó mạch gỗ nhỏ gồm từ 1-6 mạch gỗ, libe chồng lên gỗ. Các bó gỗ ngoài [hình 9] trụ bì thường có vòng mô cứng bao xung quanh, các bó phía trong [hình 10] thì không có. Mô mềm tủy đạo, tế bào đa giác hoặc chữ nhật, đôi khi có chừa các khuyết lớn.
Ở bẹ lá và thân đều chứa rải rác tinh thể [hình 11] calci oxalat hình khối nhỏ, túi tiết và tế bào tiết rải rác trong vùng mô mềm.
[hình 12]
Mặt trên lõm, mặt dưới lồi, tế bào biểu bì hình đa giác, biểu bì dưới nhỏ hơn biểu bì trên, biểu bì tiết [hình 13] có cả ở 2 mặt. Mô mềm khuyết. Nhiều bó mạch xếp thành hàng, gỗ ở trên, libe ở dưới, vòng mô cứng nằm dưới libe. Bó gỗ ở gân giữa là lớn nhất và nhỏ dần về 2 phía. Túi tiết và tế bào tiết rải rác trong vùng mô mềm. Ở 2 bên phiến lá, dưới biểu bì trên có 1 lớp tế bào hạ bì lớn, không liên tục và 3 lớp mô mềm khá giống mô giậu, nhưng tế bào ngắn hơn. Trên biểu bì dưới cũng có 1 lớp hạ bì.
Biểu bì lá: Cả 2 mặt đều có lỗ khí [hình 14] nhưng biểu bì dưới có nhiều hơn, lỗ khí kiểu 1 lá mầm, các tế bào bạn có dạng hình chữ nhật ngắn hay lục giác. Biểu bì trên [hình 15] xếp đều đặn và thẳng hàng hơn biểu bì dưới [hình 16].

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột thân rễ [hình 17] màu nâu vàng, mùi thơm, vị cay. Gồm có các thành phần sau: mảnh bần màu vàng nâu, gồm nhiều tế bào vách hơi dày. Mảnh mô mềm [hình 18] gồm những tế bào hình đa giác, rải rác có chứa tế bào tiết tinh dầu [hình 19] màu vàng nhạt hoặc tinh bột. Tinh bột hình trứng, có vân rõ, tễ nằm gần đầu nhọn, kích thước 20-24x10-17 μm. Sợi [hình 20] có vách mỏng, phía trong có lỗ trao đổi. Mảnh mạch [hình 21] vạch, mạch vòng, mạch điểm.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Chi Zingiber ở châu Á có khoảng 45 loài, Việt Nam có 11 loài.
Gừng là loại cây gia vị cổ điển được trồng ở nhiều nước trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, từ Đông Á đến Đông Nam Á và Nam Á. Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản là những nước trồng Gừng nhiều nhất thế giới. Ở Việt Nam, cây được trồng ở khắp các địa phương, từ vùng núi cao đến đồng bằng và ngoài các hải đảo.
Trong nhân dân hiện nay có nhiều loại: gừng trâu có thân to, củ to thường để làm mứt, có nhiều ở các vùng núi thấp; gừng gié có thân và củ đều nhỏ nhưng rất thơm. Cây ưa ẩm, ưa sáng. Cây trồng thường có hoa năm thứ 2. Chưa thấy cây có quả và hạt. Gừng trồng sau 1 năm nếu không thu hoạch sẽ có hiện tượng tàn lụi (phần trên mặt đất) qua đông. Thời gian sinh trưởng mạnh của cây trùng với mùa hè-thu nóng và ẩm. Gừng tái sinh dễ dàng bằng những đoạn thân rễ có nhú mầm, có thể trồng quanh năm nhưng tốt nhất vào mùa xuân. Ra hoa vào mùa hạ và mùa thu.

Bộ phận dùng: 

Thân rễ (Rhizoma Zingiberis) thu hái vào mùa thu đông, dùng tươi là sinh khương, phơi hoặc sấy khô là can khương. Còn dùng tiêu khương (gừng khô thái lát dày, sao sém vàng, đang nóng, vẩy vào ít nước, đậy kín, để nguội); bào khương (gừng khô đã bào chế); thán khương (gừng khô thái lát dày, sao cháy đen tồn tính).
Công dụng: Bột rễ trị bệnh mắt hột tốt, làm giác mạc trở nên trong, giảm sự thẩm thấu dưới niêm mạc, tăng hoạt tính sống của mô mắt. Trị đau bụng lạnh, đầy trướng không tiêu, nôn mửa ỉa chảy, tứ chi lạnh, đàm ẩm, ho suyễn.

Thành phần hóa học: 

Gừng chứa 2-3% tinh dầu với thành phần chủ yếu là các hợp chất hydrocarbon sesquiterpenic: β-zingiberen (35%), ar-curcumenen (17%), β-farnesen (10%) và một lượng nhỏ các hợp chất alcol monoterpenic như geraniol, linalol, borneol.
Nhựa dầu chứa 20-25% tinh dầu và 20-30% các chất cay. Thành phần chủ yếu của nhóm chất cay là zingeron, shogaol và zingerol, trong đó gingerol chiếm tỷ lệ cao nhất. Ngoài ra, trong tinh dầu Gừng còn chứa α-camphen, β-phelandren, eucalyptol và các gingerol. Cineol trong Gừng có tác dụng kích thích khi sử dụng tại chỗ và có tác dụng diệt khuẩn trên nhiều vi khuẩn.

Hình đính kèm
Thân
Thân rễ
lõi tròn
Lưỡi nhỏ
Thân rễ
bần
Tế bào tiết
Thân khí sinh
bó gỗ ngoài
bó phía trong
tinh thể
Lá
biểu bì tiết
lỗ khí
Biểu bì trên
biểu bì dưới
Bột thân rễ
Mảnh mô mềm
tế bào tiết tinh dầu
Sợi
Mảnh mạch