Chi Blumea

Loài B. balsamifera (L.) DC. (Cây Đại Bi)

Tên
Tên khác: 

Từ bi xanh, Đại ngải, Mai hoa não, Băng phiến ngải, Bơ nạt, Phặc phà (Tày), Co nát (Thái)

Tên khoa học: 

Blumea balsamifera (L.) DC.

Tên đồng nghĩa: 

Coryza balsamifera L.; Baccharis salvia Lour.; Pluchea balsamifera (L.) Less.; B.Balsamifera (L.) DC. var. microcephala Kitam

Họ: 

Cúc (Asteraceae)

Tên nước ngoài: 

Ngai-camphor (Anh), Camphrée (Pháp)

Mẫu thu hái tại: 

huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận ngày 26 tháng 04 năm 2010.

Số hiệu mẫu: 

DB 260410; được so giống với mẫu lưu ở Viện Sinh học nhiệt đới Tp. HCM.

Cây [hình 1] bụi, phân nhánh, cao 1-3 m, tiết diện tròn, màu xanh ở đoạn non, nâu xanh ở đoạn già. Toàn cây có nhiều lông tơ dài màu trắng và có mùi rất thơm. đơn, mọc cách [hình 2]. Phiến lá [hình 3] hình thoi, thuôn dài ở hai đầu, kích thước 15-35 x 4-10 cm, mặt trên [hình 4] hơi nhám màu xanh đậm và ít lông hơn mặt dưới [hình 5], bìa lá [hình 6] răng cưa nhọn gần đều. Gân lá hình lông chim nổi rõ ở mặt dưới, gân phụ hình mạng, 12-18 cặp gân phụ. Cuống lá màu xanh, hình trụ hơi phẳng ở mặt trên, dài 1,5-3 cm, mang 2-3 cặp phụ bộ [hình 7] của phiến lá hình lưỡi liềm hay hình thoi kích thước nhỏ dần về phía đáy cuống. Cụm hoa [hình 8] đầu đôi khi riêng lẻ ở nách lá, thường hợp thành chùm xim [hình 9] ở ngọn cành hay nách lá kích thước rất thay đổi. Đầu [hình 10] hình trứng khi là nụ, khi hoa nở đầu có hình chuông hơi thắt ở giữa, kích thước khoảng 1 x 0,5 cm, cuống ngắn 0,5-1 cm có 2-3 vảy ngắn. Tổng bao lá bắc [hình 11] 4-6 hàng lá bắc xếp kết lợp, hình bầu dục đến dải hẹp vòng trong dài hơn vòng ngoài, kích thước 1-5 x 0,5-1 mm, màu xanh hơi nâu ở đỉnh, rìa mỏng, mặt ngoài có nhiều lông. Đế cụm hoa [hình 12] phẳng đường kính khoảng 2 mm, lỗ tổ ong. Đầu mang hoa hình ống có hai loại hoa [hình 13]: hoa cái rất nhiều xếp trên 3-4 vòng ở ngoài; hoa lưỡng tính 20-25 hoa ở trong. Hoa cái màu vàng nhạt; đài biến đổi thành túm lông dài màu trắng bẩn có nhiều gai nạc; tràng hoa màu vàng nhạt dính thành một ống hẹp, dài 0,3-0,4 cm, trên chia 2-5 răng tam giác nhỏ, có lông tiết tinh dầu thơm, tiền khai van; bầu [hình 14] dưới 1 ô, màu trắng trong mờ, hình trụ hẹp ở gốc, những hoa ở ngoài cùng thường có hình trụ cong, dài 1 mm, mặt ngoài có nhiều lông ngắn và có gờ dọc, 2 lá noãn vị trí trước sau, 1 noãn đính đáy; vòi nhụy [hình 15] vàng nhạt, dạng sợi dài khoảng 0,5 cm, thò khỏi ống tràng, tận cùng là 2 nhánh đầu nhụy màu vàng đậm hình máng hẹp dài 1-2 mm choãi theo hướng trước sau. Hoa lưỡng tính màu vàng nhạt, lớn hơn hoa cái; đài giống hoa cái; tràng hoa dính thành ống dài 0,4-0,5 cm, loe dần, trên chia thành 5 phiến đều hình bầu dục có màu vàng đậm, có lông tiết [hình 16] tinh dầu nhỏ, tiền khai van; nhị 5, chỉ nhị rời [hình 17], dạng sợi dài khoảng 2-3 mm, màu vàng nhạt, đính ở gần gốc ống tràng xen kẽ với cánh hoa, bao phấn dính nhau [hình 18] thành ống dài khoảng 2-3 mm bao lấy vòi nhụy, màu vàng đậm, 2 buồng, nứt dọc, hướng trong, chung đới dạng phiến bầu dục hẹp, gốc có tai tam giác dài và nhọn; hạt phấn [hình 19] hình cầu gai, màu vàng đậm, đường kính 20-25 µm; bầu giống hoa cái, kích thước hơi ngắn và to hơn, vòi nhụy dạng sợi dài khoảng 4-5 mm, đầu nhụy [hình 20] 2, dài khoảng 2 mm, màu vàng đậm, dạng máng cạn, thuôn hẹp. Quả bế [hình 21] màu vàng nâu, hình trụ dài khoảng 1 mm, mặt ngoài vỏ có lông ngắn màu trắng và có gờ dọc, trên mang túm lông mào dài màu trắng bẩn của đài tồn tại, gốc có vòng gờ chỗ gắn với đế hoa; 1 hạt, không nội nhũ.
- Mẫu Đại bi còn được thu thập ở Khánh Hòa, Long An, Tp. HCM. Qua khảo sát nhận thấy giữa các mẫu có một số khác biệt về kích thước các bộ phận (cây, lá), độ dày của lông trên các bộ phận và số cặp phụ bộ của phiến lá trên cuống lá.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Hoa bìa

Hoa giữa

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân:
Vi phẫu [hình 22] hình gần tròn. Các mô [hình 23] gồm: Biểu bì tế bào hình tròn hoặc chữ nhật, kích thước nhỏ, không đều, lớp cutin mỏng, lỗ khí rải rác. Trên biểu bì có nhiều lông che chở đa bào và lông tiết đa bào. Lông che chở [hình 24] đa bào phía trên một dãy 3-5 tế bào dài, gần gốc có nhiều tế bào nhỏ và ngắn xếp trên 1-3 hàng. Lông tiết [hình 25] đa bào có chân dài hoặc ngắn, đầu hình trứng thuôn cấu tạo bởi nhiều hàng tế bào có lớp cutin phù thành mũ chụ [hình 26]. Ở thân già, tầng bì sinh ngay dưới lớp biểu bì sinh bần [hình 27] ở ngoài, lục bì bên trong, tế bào hình chữ nhật xếp xuyên tâm. Mô dày góc gần liên tục, 4-8 lớp tế bào tròn hoặc đa giác gần tròn, kích thước lớn hơn hoặc bằng tế bào biểu bì, không đều. Mô mềm khuyết tế bào hình bầu dục nằm ngang hoặc gần tròn kích thước không đều. Ống tiết ly bào [hình 28] nằm rải rác sát ngoài nội bì và cạnh dưới gỗ 1 trong mô mềm tủy [hình 29]. Tế bào tiết [hình 30] tinh dầu rải rác trong mô dày, mô mềm vỏ, nội bì, tia libe, libe, mô mềm tủy. Nội bì khung Caspary. Trụ bì hóa sợi mô cứng thành từng cụm không đều trên libe 1. Libe 1 tế bào đa giác, kích thước nhỏ, không đều, xếp lộn xộn. Tượng tầng tạo libe 2 và gỗ 2 ở giữa của bó dẫn cấp 1, libe 2 ít hơn gỗ 2, xếp thành nhiều bó [hình 31]. Libe 2 [hình 32] tế bào hình chữ nhật vách uốn lượn xếp xuyên tâm. Rải rác trong vùng libe có tế bào hóa mô cứng. Mạch gỗ 2 hình đa giác, kích thước to nhỏ không đều; mô mềm gỗ 2 hình đa giác hoặc chữ nhật, kích thước nhỏ, vách dày hóa gỗ hay có thể còn vách cellulose. Gỗ 1 [hình 33] tập trung thành nhiều cụm, mạch gỗ hình tròn hoặc đa giác gần tròn; mô mềm quanh gỗ 1 gồm nhiều lớp tế bào hình đa giác vách cellulose. Mô cứng nhiều lớp tế bào đa giác bao quanh gỗ 1. Tia tủy gồm nhiều dãy tế bào hình chữ nhật dài. Khoảng gian bó tế bào vách tẩm chất gỗ ở vùng dưới tượng tầng. Mô mềm tủy [hình 34] đạo chiếm một vùng rộng, tế bào hình tròn hoặc gần tròn, kích thước không đều, vách hóa gỗ mỏng và có nhiều lỗ.
:
Cuống lá [hình 35]:
Cong lồi ở mặt dưới, mặt trên phẳng có 2 tai nhỏ ở hai bên. Biểu bì một lớp tế bào hình chữ nhật hay tròn không đều, lớp cutin răng cưa mỏng, lỗ khí [hình 36] rải rác, lông che chở và lông tiết đa bào nhiều có cấu trúc giống ở thân. Mô dày góc dưới biểu bì trên nhiều hơn trên biểu bì dưới, 3-7 lớp tế bào hình đa giác, kích thước không đều. Sát biểu bì ở hai bên hoặc cách một lớp mô dày là mô mềm khuyết chứa lục lạp. Mô mềm đạo tế bào đa giác hay gần tròn, to, không đều. Mô dẫn [hình 37] gồm nhiều bó kích thước không đều xếp lộn xộn, các bó phía dưới gỗ ở trên libe, các bó phía trên thì ngược lại. Libe tế bào đa giác nhỏ, sắp xếp lộn xộn thành từng đám. Mạch gỗ hình tròn hoặc đa giác gần tròn, kích thước không đều, xếp lộn xộn xen kẽ với tế bào mô mềm. Mô dày góc 2-5 lớp tế bào hình đa giác nhỏ xếp khít nhau ở phía trên gỗ và dưới libe. Túi tiết ly bào cạnh bó dẫn. Tế bào tiết rải rác trong mô mềm.
Gân giữa [hình 38]:
Mặt trên lồi cao hơi bằng ở đỉnh, mặt dưới phình tròn thắt ở hai bên phiến lá, đôi khi có gờ lồi phụ. Tế bào biểu bì hình bầu dục hay chữ nhật kích thước không đều, lớp cutin răng cưa, lỗ khí rải rác, rất nhiều lông che chở và ít lông tiết đa bào có cấu trúc giống ở thân. Mô dày [hình 39] góc dưới biểu bì trên 5-8 lớp, trên biểu bì dưới 1-5 lớp, tế bào kích thước không đều. Mô mềm khuyết tế bào to gấp 3-5 tế bào biểu bì. Bó dẫn [hình 40] gồm 3-6 bó phía dưới với gỗ ở trên libe ở dưới và 1-3 bó phía trên phân bố gỗ và libe ngược lại. Mạch gỗ tròn hay đa giác gần tròn xếp thành 3-7 dãy xen kẽ với mô mềm 1-2 dãy tế bào vách cellulose. Libe gồm 5-8 lớp tế bào hình đa giác, kích thước nhỏ, xếp lộn xộn. Bao ngoài mỗi bó libe gỗ có mô dày góc 2-4 lớp tế bào. Túi tiết ly bào, tế bào tiết rải rác giống ở cuống lá. Tinh bột hạt nhỏ hình tròn dẹp rải rác trong mô mềm gần vùng libe.
Phiến lá [hình 41]:
Biểu bì trên tế bào hình bầu dục kích thước không đều; biểu bì dưới tế bào nhỏ hơn biểu bì trên gấp nhiều lần. Cả 2 biểu bì có lỗ khí [hình 42], nhiều lông che chở [hình 43] và lông tiết [hình 44] đa bào. Mô mềm giậu ăn sâu vào phần gân giữa, 1 lớp tế bào hình chữ nhật chiều dài gấp 2-3 chiều rộng, dưới mỗi tế bào biểu bì trên là 1-3 tế bào mô mềm giậu. Mô mềm khuyết tế bào hình đa giác hoặc gần tròn xếp tạo những khuyết rộng nối từ mô mềm giậu đến biểu bì dưới. Bó gân phụ [hình 45] rải rác, gồm gỗ ở trên libe ở dưới.
Rễ:
Vi phẫu [hình 46] hình tròn. Các mô [hình 47] gồm: Bần vài lớp tế bào hình chữ nhật, xếp xuyên tâm, thường bong tróc. Lục bì vài lớp tế bào hình chữ nhật vách hơi lượn, xếp xuyên tâm với bần. Mô mềm vỏ [hình 48] khuyết tế bào hình bầu dục nằm ngang, vách mỏng, tạo khuyết rộng. Nội bì [hình 49] khung Caspary. Trụ bì 1-2 lớp tế bào to, không đều, vách cellulose. Mô mềm dưới nội bì đạo tế bào đa giác gần tròn. Tia tủy rộng gồm 2-5 dãy tế bào hình đa giác xếp theo hướng xuyên tâm. Libe 2 tế bào vách mỏng, xếp xuyên tâm thành nhiều lớp tạo thành nhiều chùy không đều, nhiều tế bào hóa mô cứng [hình 50] hay vách cellulose dày xếp riêng rẽ hoặc tụ thành từng đám xen kẽ với mô mềm libe. Gỗ 2 chiếm tâm [hình 51], không liên tục do các tia tủy vách cellulose; mạch gỗ [hình 52] 2 hình đa giác, tròn hay bầu dục kích thước to nhỏ không đều; mô mềm gỗ hóa mô cứng hay còn vách cellulose. Gỗ 1 khó phân biệt. Ống tiết [hình 53] ly bào rải rác sát ngay trên nội bì. Tinh bột nằm rải rác trong tế bào mô mềm vỏ, nội bì và tia libe. Hạt tinh bột [hình 54] nhỏ hình gần bầu dục dẹp.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột cành lá có màu xanh đậm, mùi thơm, vị the cay. Thành phần gồm: Mảnh mô mềm [hình 55] lá và thân tế bào đa giác có vách mỏng. Mảnh biểu bì [hình 56] lá có lỗ khí. Lông tiết [hình 57] đa bào (nhiều hàng tế bào) có lớp cutin phù thành mũ chụp, thường bị gãy vỡ. Lông che chở [hình 58] đa bào bị gãy. Mảnh mạch [hình 59] (mạng, xoắn, vạch, điểm). Sợi [hình 60] tụ thành bó hoặc riêng lẻ.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Đại bi phân bố khá rộng rãi ở vùng nhiệt đới như Việt Nam và nhiều nước vùng Nam và Đông Nam Á. Ở Việt Nam, Đại bi là cây phân bố rộng rãi ở hầu hết các tỉnh miền núi thấp (dưới 1000 m), trung du và cả ở đồng bằng và nhiều đảo lớn.
Cây ưa sáng, thường sống 1-2 năm, mọc trên các vùng nương rẫy cũ, đồi cây bụi hoặc ven rừng. Mùa hoa quả: tháng 3-5.

Bộ phận dùng: 

Lá, cành non, rễ và mai hoa băng phiến (Folium, Ramulus, Radix et Camphora blumeae).

Thành phần hóa học: 

Lá chứa 0,2-1,88% tinh dầu và borneol. Thành phần chính của tinh dầu là d-borneol, l-camphor cineol, limonen, acid palmitic, acid myristic còn chứa các sesquiterpen alcol.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Đại bi có vị cay, đắng, tính ôn, có tác dụng khu phong, trừ thấp, hoạt huyết, tiêu ứ, sát trùng, được dùng làm thuốc chữa cảm sốt, cúm, làm ra mồ hôi dưới dạng thuốc xông. Nước sắc lá Đại bi uống chữa đầy bụng, ăn uống khó tiêu, ho nhiều đờm. Dùng ngoài chữa lở loét, vết thương sưng đau.
Mai hoa băng phiến có vị cay, đắng, tính hơi lạnh, có tác dụng thông khiếu, tán uất hỏa, chỉ thống, tiêu thũng, minh mục, cường tim, được dùng chữa trúng phong cấm khẩu, đau bụng, đau ngực, ho lâu ngày, đau mắt, đau họng.

Hình đính kèm
Cây
mọc cách
Phiến lá
mặt trên
mặt dưới
bìa lá
phụ bộ
Cụm hoa
chùm xim
Đầu
lá bắc
Đế cụm hoa
hai loại hoa
bầu
vòi nhụy
lông tiết
chỉ nhị rời
bao phấn dính nhau
hạt phấn
đầu nhụy
Quả bế
Vi phẫu
Các mô
Lông che chở
Lông tiết
mũ chụ
bần
Ống tiết ly bào
trong mô mềm tủy
Tế bào tiết
nhiều bó
Libe 2
Gỗ 1
Mô mềm tủy
Cuống lá
lỗ khí
Mô dẫn
Gân giữa
Mô dày
Bó dẫn
Phiến lá
lỗ khí
lông che chở
lông tiết
Bó gân phụ
Vi phẫu
Các mô
Mô mềm vỏ
Nội bì
mô cứng
Gỗ 2 chiếm tâm
mạch gỗ
Ống tiết
tinh bột
Mảnh mô mềm
Mảnh biểu bì
Lông tiết
Lông che chở
Mảnh mạch
Sợi

Loài Blumea lacera (Burm. f.) DC. (Cây Hạ Khô Thảo Nam)

Tên
Tên khác: 

Cải trời, Cải ma, Kim đầu tuyến, Cỏ hôi, Bọ xít, Vừng tây, Đại bi rách

Tên khoa học: 

Blumea lacera (Burm. f. ) DC.

Tên đồng nghĩa: 

Conyza lacera Bum. f. 1768. Blummea glandulosa DC, 1834. Contrib. Bot. Ind. 14. Blumea subcapitata DC. 1936. Prodr. 5: 439; Gapnep. 1924. FI. Gen, Indoch. 3.: 535; Hnad-Mazz. 1936. Symb. Sin. 7: 1096. Blumae commersoni Edgw, 1853, Journ. As. Soc. Beng. 21: 38. Blumea thyrsoidea Sch.-Bip. 1866. Bot. Zeit. 24: 165. Blumea bodinieri Vaniot, 1903. Bull. Acad. Geogr. Bot. 12: 23. Conyza velutina H. Le1vl. 1912. Rerpert. Sp. Nov. 11: 307.

Họ: 

Cúc (Asteraceae)

Mẫu thu hái tại: 

An Giang tháng 03/2010.

Số hiệu mẫu: 

HKTN0310, được lưu tại Bộ môn Thực vật-Khoa Dược.

Cỏ [hình 1] đứng, cao 0,4-0,8 m, phân cành nhiều, có mùi thơm. Thân có tiết diện tròn, màu xanh, phủ nhiều lông ngắn dính và ít lông dài màu trắng. [hình 2] đơn, mọc cách. Phiến lá hình bầu dục rộng hay gần tròn, đầu nhọn; kích thước 3-4,5 x 2,5-4 cm; màu xanh lục, mặt trên đậm hơn mặt dưới, bìa lá có khía răng cạn, khoảng cách giữa các khía răng không bằng nhau. Gân lá hình lông chim với 5-6 cặp gân bên. Cuống lá màu xanh lục nhạt, mặt trên phẳng, mặt dưới lồi, dài 1,5 cm. Phiến lá men dần theo cuống, các lá phía ngọn gần như không cuống. Trên 2 mặt lá và cuống lá phủ đầy lông dính màu trắng. Cụm hoa [hình 3]: Đầu đường kính 0,5-0,6 cm được mang trên một cuống dài khoảng 1 cm, các cụm hoa đầu hợp thành xim, mỗi xim mọc ở ngọn cành hay nách lá phía ngọn cành, các lá này giống lá thường nhưng kích thước nhỏ hơn, cuống của xim hình trụ màu xanh lục, dài khoảng 4-5 cm. Trên cuống của đầu và cuống của xim phủ nhiều lông ngắn dính và ít lông dài màu trắng. Tổng bao lá bắc [hình 4] gồm 3-4 vòng xếp xen kẽ nhau, mỗi vòng trên 10 lá bắc, các lá bắc vòng ngoài cùng cao 0,2 cm, lá bắc của vòng trong cao hơn lá bắc vòng ngoài 0,1 cm. Lá bắc dạng dải hẹp, ở giữa màu xanh, mép mỏng màu trắng, mặt ngoài phủ nhiều lông như ở thân. Hoa: Trên cụm hoa đầu có 2 loại hoa; hoa bìa là những hoa cái hình ống, không đều, cao 4-5 mm; hoa giữa là những hoa hình ống, hoa đều, lưỡng tính, cao 5-6 mm.
Hoa cái [hình 5]: Đài biến đổi thành những lông dài màu trắng. Tràng hoa dạng ống mảnh màu vàng cao 3-4 mm, phía trên chia 2-3 thùy đầu tà không bằng nhau, không có lông. Lá noãn 2, bầu dưới 1 ô, 1 noãn, đính noãn đáy. Bầu noãn dẹp màu trắng, có 10 sọc dọc. Một vòi nhụy dạng sợi mảnh màu trắng, dài 0,4 cm, nhẵn. Hai đầu nhụy dạng sợi màu vàng dài 0,1 cm, phủ nhiều lông ngắn dính màu trắng.
Hoa lưỡng tính [hình 6]: Lá đài giống hoa bìa. Cánh hoa 5, đều, dính, màu vàng. Ống tràng cao 3-4,5 mm, 5 thùy hình tam giác, mặt ngoài cánh hoa phủ nhiều lông ngắn dính màu trắng. Nhị 5, đều, đính trên đáy ống tràng xen kẽ cánh hoa, dính nhau ở bao phấn tạo thành 1 ống bao quanh vòi nhụy. Chỉ nhị dạng sợi mảnh màu trắng. Bao phấn thuôn dài màu vàng, 2 ô, nứt dọc, hướng trong, đính đáy, đáy bao phấn có tai. Hạt phấn hình bầu dục hay hình cầu có gai, màu vàng, rời, kích thước 20 µm. Bộ nhụy giống hoa cái.
Quả hơi dẹp màu nâu, cao 1 mm, có ít lông và 10 gờ nổi, mào lông ở đỉnh quả màu trắng.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Hoa bìa:

Hoa giữa:

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân:
Vi phẫu thân [hình 7] hình tròn. Biểu bì 1 lớp tế bào hình chữ nhật kích thước không đều, cutin mỏng; trên biểu bì có nhiều lông che chở [hình 8] đa bào 1 dãy (3-7 tế bào); nhiều lông tiết [hình 8] chân đa bào (6-9 tế bào) đầu đơn bào, rải rác có lỗ khí. Mô dày phiến liên tục quanh thân, 1-2 lớp tế bào hình chữ nhật hay hơi đa giác. Mô mềm vỏ khuyết, tế bào hình bầu dục, 2 lớp bên ngoài kích thước nhỏ, 2-3 lớp bên trong kích thước lớn hơn. Nội bì đai caspary tế bào hình chữ nhật hay hơi đa giác. Trụ bì hóa mô cứng thành từng cụm trên đầu các bó libe gỗ, 4-5 lớp tế bào hình đa giác kích thước không đều, xếp sát nhau. Hệ thống dẫn cấu tạo cấp 2 theo kiểu hậu thể gián đoạn gồm nhiều bó libe gỗ [hình 9]. Mỗi bó cấu tạo như sau: Libe 1 tế bào hình đa giác, vách uốn lượn, xếp lộn xộn. Libe 2-4 lớp tế bào hình chữ nhật, xếp xuyên tâm. Gỗ 2, mạch gỗ 2 hơi đa giác hay bầu dục, kích thước khác nhau, xếp lộn xộn. Mô mềm gỗ 2 tế bào hình đa giác, vách tẩm chất gỗ. Gỗ 1, 3-7 bó. Mô mềm gỗ 1 tế bào hình đa giác, xếp lộn xộn, vách cellulose. Khoảng gian bó gồm 5-8 dãy tế bào hình chữ nhật hay đa giác, vách cellulose trong vùng libe, vách tẩm chất gỗ trong vùng gỗ. Mô mềm tủy đạo tế bào hình tròn, xếp lộn xộn, kích thước to dần vào tâm vi phẫu. Vài tế bào tiết và ống tiết ly bào nhỏ trong vùng mô mềm vỏ sát nội bì.
[hình 10]:
Gân giữa: Mặt trên phẳng, mặt dưới lồi nhiều. Biểu bì trên và dưới 1 lớp tế bào hình chữ nhật, kích thước như nhau, cutin mỏng. Trên 2 lớp biểu bì có nhiều lông che chở và lông tiết như ở thân. Mô dày trên và dưới là mô dày phiến, 1-2 lớp tế bào hình chữ nhật hay đa giác kích thước gần đều. Hai bên cụm mô dày ở biểu bì trên là 2-3 lớp tế bào mô mềm kích thước nhỏ chứa lục lạp. Mô mềm khuyết, tế bào hình đa giác kích thước không đều, to dần vào trong. Hệ thống dẫn cấu tạo cấp 1, 3-4 bó libe gỗ [hình 11], bó ở giữa lớn nhất, gỗ ở trên, libe ở dưới, giữa 2 dãy mạch gỗ là 1-2 dãy tế bào mô mềm gỗ hình đa giác. Phía trên gỗ và dưới libe có cụm mô dày, 4-6 lớp tế bào nhỏ hình đa giác, xếp khít nhau. Vài tế bào tiết và ống tiết [hình 12] ly bào nhỏ trong vùng mô mềm quanh bó libe gỗ.
Phiến lá [hình 13]: Biểu bì trên và dưới, 1 lớp tế bào hình chữ nhật có lông che chở và lông tiết như ở thân, tế bào biểu bì trên lớn hơn tế bào biểu bì dưới. Mô mềm giậu tế bào hình bầu dục thuôn dài vách uốn lượn, chứa lục lạp. Mô mềm khuyết tế bào hình bầu dục vách uốn lượn. Bó gân phụ với gỗ ở trên, libe ở dưới.
Cuống lá:
Vi phẫu cuống lá [hình 14] mặt trên phẳng, mặt dưới lồi tròn, 2 bên có 2 tai nhỏ. Biểu bì trên và dưới 1 lớp tế bào hình chữ nhật có nhiều lông tiết và lông che chở như ở thân. Mô dày phiến giống ở gân giữa lá. Dưới mô dày trên là 2 lớp tế bào hình bầu dục, kích thước nhỏ, chứa lục lạp. Mô mềm khuyết giống ở gân giữa. Hệ thống dẫn với 5 bó libe-gỗ cấu tạo giống ở gân giữa lá, bó ở giữa to nhất. Vài tế bào tiết và ống tiết ly bào nhỏ trong vùng mô mềm quanh bó libe gỗ.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột toàn cây [hình 15]: Bột hơi thô, màu nâu xanh. Thành phần: Mảnh lá đài, hạt phấn, mảnh bao phấn, mảnh cánh hoa, lông tiết, lông che chở đa bào, mảnh biểu bì mang lỗ khí kiểu dị bào hay hỗn bào (nhìn từ trên xuống), mảnh mô mềm, sợi riêng lẻ hay từng bó; mảnh mạch xoắn, mạch vòng, mạch vạch, mạch mạng.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Hạ khô thảo nam là một loài cỏ dại có nguồn gốc ở vùng Ấn Độ -Malaysia, sau đó lan ra các nuớc lân cận ở vùng Nam Á, Đông Nam Á, Đông Dương, đến tận Trung Quốc và Australia.
Ở Việt Nam, cây phân bố khắp các tỉnh vùng núi đồi (dưới 1000m), trung du và đồng bằng: Sơn La (sông Mã), Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hòa Bình, Hà Tây (Ba Vì), Hà Nội, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế (Phú Lộc), Kon Tum (Đắk Tô, Đắk Glei), Lâm Đồng (Đà Lạt), Khánh Hòa. Cây mọc ven đường, ven đồi, ven rừng, trên các bãi hoang, bờ ruộng, vườn gia đình.
Ở Ấn Độ cây có thể có ở độ cao 2500 m và có chiều cao trên 2 m. Hạ khô thảo nam là cây ưa sáng mọc nhanh. Cây con mọc từ hạt thường thấy vào giữa mùa xuân, sinh trưởng mạnh vào mùa hè, ra hoa quả vào mùa thu, sau đó tàn lụi. Cây có thể chịu được khô hạn vào thời kì có hoa quả. Hạt có túm lông, phát tán nhờ gió. Trước khi có hoa, nếu bị cắt, phần còn lại có thể tiếp tục tái sinh.
Mùa hoa quả: tháng 3-6.

Bộ phận dùng: 

Toàn thân – Herba Blumeae lacerae. Thu hái vào mùa xuân, hè, chặt nhỏ, phơi khô.

Thành phần hóa học: 

Theo Wehmer, toàn cây Hạ khô thảo nam có chứa 0,085% tinh dầu với thành phần chủ yếu là mai hoa băng phiến (The Wealth of India I, 1948).
Tinh dầu từ Hạ khô thảo nam ở Nigieria chứa thymolquinol-dimethyl-eter (Prosea 12 (1), 1999).
Theo tài liệu khác Hạ khô thảo nam chứa 60% cineol, 10% fenchon, khoảng 6% citral.
Lá chứa flavonoid: 5-hydroxy-3,6,7,3’,4’-pentamethoxyflavon, 5,3’,4’-trihydroxy-3,6,7-trimethxyflavon và một ít hợp chất flavon khác. Phần trên mặt đất còn có campestrol. Hai glycosid cũng có trong toàn cây: 19α-hydroxy-urs-12-en-24,28-dioat-3-O-β-D-xylopyranosid và 2-isopropyl-5-isoprenyl phenol-4- O-β-D-xylopyranosid (Prosea 12 (1), 1999).

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Dùng Hạ khô thảo nam chung với Xạ can làm tiêu hạch rò mủ và nhũn bã đậu. Tinh dầu của Hạ khô thảo nam làm tăng tác dụng diệt côn trùng của Cúc trừ sâu.
Công dụng:
Hạ khô thảo nam có tác dụng thanh can hỏa, giải độc, tiêu viêm, tán uất, tiêu hòn cục, cầm máu, sát trùng.

Hình đính kèm
Cỏ
Lá
Cụm hoa
Tổng bao lá bắc
Hoa cái
Hoa lưỡng tính
Vi phẫu thân
lông tiết
bó libe gỗ
Lá
bó libe gỗ
ống tiết
Phiến lá
Vi phẫu cuống lá
Bột toàn cây